Hương vị xuân, tết trong những trang văn Nguyễn Minh Châu

14:36 11/02/2019

Đã ba mươi năm tròn (1989-2019), nhà văn Nguyễn Minh Châu vĩnh biệt chúng ta vào độ trăng rằm của tài năng sáng tạo. Tết Kỷ Hợi này văn giới Việt Nam lại tưởng nhớ đến ông, một “người mở đường tinh anh” trong công cuộc đổi mới văn học.

Nguyễn Minh Châu để lại cho đời một hệ thống tác phẩm đồ sộ gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, bút kí và tiểu luận với những trang viết thấm đẫm cảm hứng nhân văn và mối quan hoài da diết với con người, cuộc đời, thiên nhiên. Qua nhiều trang - chủ yếu là kí và ghi chép - độc giả cảm nhận được hình ảnh, hương vị xuân và tết cổ truyền dân tộc trong những hình hài khác nhau, hết sức sinh động và gợi nhớ tâm cảm của người cầm bút trước sự xoay vần của thiên nhiên qua bốn mùa.

Đọc Di cảo Nguyễn Minh Châu (Nxb Hà Nội, 2009), chúng ta có dịp nhớ lại không khí tết Hà Nội những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỉ XX qua những đoạn văn ngắn trong phần thứ ba -Riêng tư của cuốn sách. Hà Nội những ngày tết năm 1957 là một đoạn ghi chép ngắn nhưng nói được nhiều điều, theo kiểu “ý tại ngôn ngoại” của thơ ca. Kể và tả cái không khí của thủ đô sau ngày giải phóng chưa lâu (10/10/1954), tác giả làm sống lại quang cảnh của một Hà Nội những năm đầu hòa bình với bao bộn bề, khó khăn và phức tạp. Nhưng vượt lên trên tất cả là niềm vui hồ hởi của cư dân Hà thành đón tết: “Mình đã dạo những phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Tràng Tiền, và những phố gì chưa thuộc hết lối. Chật ních những người. Hình như cả nước có chiếc xe đạp nào đều đem về đây hết. Mình cũng hòa trong cái dòng người sực mùi son phấn và muôn màu sắc ấy. (…) Những ngày cuối năm. Trưa chiều ngồi làm việc nghe tiếng còi tàu thét dài, những chuyến tàu chật ních người về quê ăn tết như những đàn chim về tổ khi mặt trời xuống”. Những dòng văn ấy cho thấy sự hòa nhập tức thời của người lính cách mạng với một vùng đất thiêng, nó khác hẳn cái tâm thế cũng của người lính trong Một lần tới thủ đô (1946) của Trần Đăng. (Khi đó, vào những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, có bốn chiến sĩ từ chiến khu về Hà Nội dự một lớp tập huấn ngắn ngày, họ đi giữa một Hà Nội đầy ánh sáng và len dạ nhưng vẫn đi “theo lối đi rừng” và trong một tư thế thật đặc biệt - “mắt mở mà không trông, tai lắng mà không nghe”). Hình ảnh chiếc xe đạp trong bài kí của Nguyễn Minh Châu viết năm 1957 cho ta nhận biết một thời kì gian khổ, thiếu thốn nhưng cuộc sống tràn đầy tình người.

Cũng trong phần Riêng tư của Di cảo Nguyễn Minh Châu, một đoạn văn ngắn khác về tết được ghi cụ thể hơn: “Dù sao thì một năm mới cũng đã đến. Cho đến giờ gần sáu mươi tuổi mình vẫn không hiểu nổi hai chữ mùa xuân với cái phần nghĩa bóng của nó mà người ta phết lên cái từ này với đủ thứ tùy bút của thơ văn lãng mạn” (Bốn giờ sáng mồng một Tết năm Mèo, 1987). Không phải là nhà văn không háo hức đón tết cổ truyền, không phải là nhà văn không hiểu hết cái ý nghĩa sâu xa của hai chữ mùa xuân, mà thực ra - theo tôi - hình như đây là thời điểm có những khủng hoảng trong thể chất và tinh thần của Nguyễn Minh Châu (nên nhớ lại là tiểu luận Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa của nhà văn in trên báo Văn nghệ số 49 và 50 ra ngày 5/12/1987, đến tháng 3/1988 bác sĩ phát hiện nhà văn bị bệnh ung thư máu).

Nhà văn Nguyễn Minh Châu là người đắm đuối với văn chương, tất nhiên, nhưng cũng là người đắm đuối với gia đình. Đọc lại đoạn nhật kí sau của ông trong Di cảo sẽ thấy rõ điều đó: “1/1971. Doanh, em và các con! Sáng ngày mai, 23/1 anh về quê đây. Anh đi nhờ xe của Báo Quân đội, nhưng không mang xe đạp về được, nặng lắm. Không biết về nhà được không. Anh gửi lên chỗ em số phiếu, để em mua kẻo bỏ phí. Các thứ hàng tết ngày mai mới bắt đầu bán. Doanh ạ, mấy hôm nay không hiểu sao anh buồn quá. Giá có em cùng về thì vui. Anh về nhà rồi không biết xoay xở thế nào, nhất là thương các con ở ngoài này. Tất nhiên là có em rồi. Nhưng gia đình ngày tết thiếu anh. Anh tuy nghĩ vậy nhưng cũng cố về nhà tết này, mẹ không biết còn sống được không, em cũng thông cảm cho anh. Anh rất yêu mẹ và phải về, vì còn ông Hiền nữa. Tết này em cố gắng thu xếp cho các con nó ăn tết cho đầy đủ và vui thì anh mới yên tâm. Anh chúc em sang năm mới khỏe và Tâm My Mai học giỏi và ngoan nhé. TB: Anh gửi hai tờ phiếu quý I. Tết này anh Chinh đưa các cháu về ăn tết ở 800”. Năm 1971, đang trong thời bao cấp, tem phiếu. Một nhà văn tầm cỡ như Nguyễn Minh Châu mà cũng phải bận tâm vì chuyện tem phiếu thì đủ biết cuộc sống khó khăn đến nhường nào. Những dòng văn trên cho thấy tấm lòng của nhà văn nặng nợ với đời, với nhân dân nghèo khổ nói chung, với vợ con nói riêng. Nhưng vượt lên trên thiếu thốn, nhà văn bao giờ cũng là người mưu cầu niềm vui cho người khác.

Trong Di cảo Nguyễn Minh Châu, độc giả còn tìm thấy nhiều đoạn ghi chép khác của nhà văn về tết (các trang 87, 88, 90, 167…). Nhưng có lẽ tập trung và sâu đậm nhất tình cảm của nhà văn về tết cổ truyền dân tộc là truyện ngắn Chợ tết (viết tháng 11/1987, in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội số 2/1988). Ai xa quê lâu ngày trở về quê vào dịp tết mới thấy hết cái cảm giác được đi chợ tết quê mộc mạc, sum vầy: “Quãng quá trưa, khi Định được lão Đất dắt đi dụi mả bố mẹ mình trở về thì cả khu chợ đã đông nghịt. Nhất là không khí của nó đã ra dáng một phiên chợ tết. Trên mảnh đất bom đạn và chiến tranh đã nhào nặn đến biến dạng, Định có dịp thấy tất cả những gì quen thuộc với Định từ nhỏ, chính Định cũng đã quên đi, thì nó vẫn còn đó. Định thích thú ngắm nghía những con lợn đất sơn đỏ, những chiếc kèn cũng bằng đất vắt hình con gà trống, những nhành hoa thờ với những bông hoa bằng giấy kim tuyến lỗ chỗ vết kim châm. Chen lấn giữa đám con nít bâu quanh một chiếc bàn, Định đứng xem một anh chàng đội mũ phớt tàng, mặt rỗ hoa đang vắt con giống. Từ một hàng những vắt bột nếp nhuộm màu ngũ sắc với một chiếc que tre, mười ngón tay cứ thoăn thoắt trong nháy mắt đã làm sống lại những Phàn Lê Hoa, những Quan Công… Bánh mướt, bánh xèo… Định la cà suốt một dãy bán miếng chín quen thuộc với Định từ bé. Định đi dưới giao thông hào, leo lên bờ hố bom. Các dãy hàng cá, hàng gạo, hàng vôi, hàng nồi đất. (…) Một cái gì bao quanh Định, một không khí luôn luôn bao bọc Định, đấy là sự quen thuộc, một nếp sống quen thuộc đã có từ lâu đời và chả có gì bị phá vỡ đang phô diễn trong phiên chợ tết ban đầu khiến Định say mê và rưng rưng cảm động”.

Cảm thức về mùa xuân, về tết đậm đà nhất trong bút kí Nghĩ lúc giao thừa (Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 4, Nxb Văn học, 2001). Bút kí này nhà văn viết ngày 3/1/1984 với sự chiêm nghiệm lẽ đời và quy luật của tạo hoá: “Mỗi lần tiễn một năm cũ và đón một năm mới về, nghe những người chung quanh nồng nhiệt và thành tâm chúc tụng nhau, tôi cứ nghĩ một cách đầy ngỡ ngàng lẫn sung sướng rằng: Không có gì cũ kĩ như một lời chúc nhau đầu năm, nhưng cũng không có gì hân hoan, mới mẻ và tinh khiết như một lời chúc nhau đầu năm. Đó là niềm lạc quan lẫn hi vọng khắc khoải, bất diệt của con người ta vào những điều tốt đẹp - những điều vẫn hằng thiết tha mong ước lẫn cho nhau - như những cánh én mùa xuân ở ngoài đời không bao giờ mất. (…) Tôi vẫn nhớ khi nhỏ còn ở nhà, mỗi đêm ba mươi tết, mẹ tôi thường nhìn ra ngoài trời, bằng cái nhìn mang phép biện chứng của một người “nhà quê” của người: Đêm ba mươi năm nào thật tối trời là năm ấy mẹ tôi lại thật yên tâm và vui mừng khấp khởi trong lòng, vì lẽ sang năm sẽ được mùa”. Chữ “giao thừa” mà nhà văn Nguyễn Minh Châu dùng còn mang một ý nghĩa khác - sự chuyển giao của hai thời kì đời sống. Vì thế mà ông coi ngày 1/5/1975 cũng là một “giao thừa” trong đời sống của cả dân tộc Việt Nam: “Tôi không thể nào quên được cái đêm mồng 1 tháng 5 năm 1975, đúng một ngày sau khi quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, cả Hà Nội đổ về phía Bờ Hồ dự đốt pháo hoa mừng đại thắng. Khi những đốm pháo hoa vừa tắt chỉ còn để lại giữa vòm trời sáng trong trên nóc Tháp Rùa những dải khói trắng, thì từ bốn phía Bờ Hồ, các nam nữ thanh niên ồn ào tản đi dạo các đường phố đông đúc của ngày hội, riêng chỉ có những cặp vợ chồng cán bộ và bộ đội ở vào lứa tuổi bốn, năm mươi, mà cuộc đời riêng đã gắn chặt vào số phận đất nước, là vẫn ngồi lại. Họ ngồi đến quá nửa đêm mà vẫn cứ muốn ngồi lại mãi. Đêm ấy mới thật là đêm giao thừa có ý nghĩa nhất đời họ”. Rồi nhà văn trở lại với ý nghĩa đích thực của “giao thừa” truyền thống, đó là giờ khắc chuyển từ năm cũ sang năm mới theo quy luật của tạo hoá, trong một nỗi niềm hân hoan, vui sướng cùng nhân dân của mình: “Giao thừa đã điểm! Khoảnh khắc thời gian tách ra làm đôi, lòng mỗi con người Việt Nam đang tìm đến nhau để sum họp, trong khói pháo và hương trầm ngào ngạt trước bàn thờ tổ tiên, lòng chúng ta sao mà bồn chồn, nao nức, rộn ràng đến khó tả”.

Một năm cũ qua đi, một năm mới lại đến, tấm lòng của nhà văn Nguyễn Minh Châu với đời, với người, với tạo hoá thật đằm thắm, sâu sắc qua những trang văn tản mạn về thời gian viết nhưng lại cô đặc nỗi niềm về xuân, tết.

Theo Bùi Việt Thắng - VNQĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • 1. Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ nhận thấy có một số triều đại, nhân vật được các nhà văn tập trung khai khác với mật độ khá dày như nhà Trần với Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo (xuất hiện trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sĩ, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…), nhà Lê với Nguyễn Trãi (xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Trãi của Bùi Anh Tấn…), nhà Tây Sơn với Nguyễn Huệ (xuất hiện trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh…).

  • Có thể coi “Dế mèn phiêu lưu ký” là một trong những tác phẩm đặc biệt nhất của văn học Việt Nam, khi tính đến nay đã có rất nhiều ấn bản đặc biệt của bộ sách này ra đời. Mới đây, độc giả yêu mến “dế mèn” lại một lần nữa được thưởng thức cuộc phiêu lưu của chú dế lừng danh qua ấn phẩm mới với những bức tranh minh họa hoàn toàn khác biệt của nữ họa sĩ trẻ Đậu Đũa.

  • Ở vào tuổi 99, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư vẫn tỏ ra minh mẫn và tinh anh khi giao lưu cùng bạn đọc nhân dịp tái bản bộ tiểu thuyết lịch sử Loạn 12 sứ quân do NXB Văn hóa - Văn nghệ tổ chức vào sáng ngày 20-9, tại Đường sách TPHCM.

  • Khi nghe tin nhà văn Vũ Tú Nam đã trút hơi thở cuối cùng, lòng tôi dâng lên một nỗi buồn. Nhưng trong nỗi buồn ấy là những ký ức đẹp và ấm áp về ông. Hình ảnh ông hiện lên và ngự trị trên hình ảnh ấy là ánh mắt và nụ cười hiền hậu.

  • "Túc tắc sống/ Ngày nối ngày/ Túc tắc say từng phút giây/ Tới khi nào buông tay bút/ Trời xanh ngút túc tắc bay..." - là những dòng thơ của con trai nhà văn Vũ Tú Nam mới đăng để tiễn biệt cha về cõi vĩnh hằng.

  • Sớm thứ hai ngày 7-9, Trung tướng Triệu Xuân Hòa (Ba Hòa), nguyên Tư lệnh Quân khu 7, gọi cho tôi: “Anh nghe tin buồn chưa, bác Văn Lê đi đêm qua rồi”. Tôi không tin vào tai mình, hỏi lại: “Văn Lê nào, có phải nhà thơ Văn Lê?”. Giọng Ba Hòa buồn rười rượi: “Mới sớm qua, bác ấy còn đi qua ngõ nhà chúng tôi. Bác ấy vẫn cười vui mà?”.

  • “Mở mắt ngày đã trôi” là tập truyện mới của tác giả Hoàng Thanh Hương nằm trong đề án Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam thực hiện năm 2020.

  • Kỷ niệm 75 năm Quốc khánh 2.9, NXB Kim Đồng giới thiệu những cuốn sách về quê hương đất nước, lịch sử cách mạng, về Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, nhằm góp phần bồi đắp trong thế hệ trẻ lòng yêu nước thương nòi, tinh thần tự hào, hiểu sâu sắc hơn vị trí, uy tín của Việt Nam trong thế giới hiện đại là khởi nguồn từ ngày 2.9.1945.

  • Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950, là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại, với những sáng tác truyện ngắn đặc sắc, mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích, hoặc lịch sử. Với Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Đông A và NXB Văn học), bạn đọc sẽ được gặp lại một cuốn sách vừa quen vừa lạ.

  • Được xem là tác phẩm đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác ngắn ngủi của “Ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng, tiểu thuyết Số đỏ đã từng quen thuộc với nhiều thế hệ độc giả Việt Nam. Mới đây, tác phẩm vừa được trở lại với một diện mạo hoàn toàn mới do Công ty Sách Đông A và NXB Văn học ấn hành.

  • Nhà nghiên cứu Phan Ngọc khi nghiên cứu bản sắc văn hoá của người Việt Nam đã nêu ra bốn yếu tố: Tổ quốc, gia đình, thân phận và diện mạo. Theo tôi trong bốn yếu tố ấy thì quan trọng nhất, khi hai yếu tố kia đã có rồi, là thân phận và diện mạo, vì hai yếu tố này mới xác nhận vị thế một con người trong xã hội.

  • Tôi xúc động rưng rưng khi đọc những trang đầu cuốn sách mới của nhà văn Ngô Thảo với đầu đề “Nghiêng trong bóng chiều” (Nxb. Quân đội nhân dân, 2020), mừng ông tròn tuổi 80. Ông mở đầu: Khi trò chuyện với người già, lớp trẻ sợ nhất là các vị ôn nghèo, kể khổ về thời bao cấp.

  • Trở về với miền Nam để trả món nợ ân tình, đó chính là khát vọng để Nguyễn Thi sáng tạo nên những tác phẩm cố gắng khái quát bức tranh rộng lớn của một thời cả dân tộc lên đường đánh Mĩ.

  • Bao năm qua, những sáng tác về Hà Nội đều đặn ra mắt công chúng. Không phải ngẫu nhiên nhiều tác giả luôn ưu ái dành một góc văn chương của mình để viết về Hà Nội, bởi tình yêu, sự mến thương và cảm giác gắn bó với mảnh đất Thăng Long xưa.

  • Tiểu thuyết “Những ngày cách ly”, tác giả Bùi Quang Thắng, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh dài 160 trang được viết trong 12 ngày, đề tài liên quan đến dịch Covid-19. Đọc xong, điều đầu tiên, cũng đáng nể người viết, người biên tập, đây hẳn là cuộc chạy đua để cuốn sách đến được với bạn đọc trong thời gian nhanh nhất có thể.

  • Bộ sách đồ sộ với độ dày gần 5000 trang tập hợp 30 nhật ký của những người lính trong chiến tranh. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gọi đây là bộ hồ sơ văn hóa Việt Nam. Còn Trung tướng, Anh hùng LLVTND Đoàn Sinh Hưởng thì coi bộ sách là dấu ấn tâm hồn của các anh hùng liệt sĩ.

  • 5 năm sau khi nữ tác giả Svetlane Alexievich nhận giải Nobel văn học cho những cuốn sách thuộc thể loại phi hư cấu, Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, bằng sự nỗ lực lớn đã tiếp tục giới thiệu các tác phẩm của bà. Hai cuốn sách được dịch và giới thiệu mới là “Những nhân chứng cuối cùng” và “Những cậu bé kẽm” do dịch giả Phan Xuân Loan thực hiện.

  • Với mong muốn khơi gợi niềm thích thú và sự tò mò của độc giả nhỏ tuổi đến với sách giáo dục truyền thống, Nhà xuất bản Kim Đồng vừa giới thiệu câu chuyện về tấm gương anh hùng của chị Võ Thị Sáu và anh Lý Tự Trọng với phần lời kể được lồng ghép cùng những bức tranh tả thực hoành tráng.

  • Trong lòng tôi, nhà văn Phạm Tường Hạnh là người anh giàu tình nghĩa, sống sôi động, bộc trực, thẳng thắn, nhưng với đồng nghiệp thì luôn biết lắng nghe và tôn trọng. Hôm nay, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Phạm Tường Hạnh, xin có đôi dòng...

  • Đến nay, nhà văn Ma Văn Kháng đã cho ra đời hơn 20 tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn, chủ yếu lấy cảm hứng từ sử thi và thế sự đời tư, đề cập phần nhiều đến cuộc sống và con người vùng Tây Bắc.