Đã ba mươi năm tròn (1989-2019), nhà văn Nguyễn Minh Châu vĩnh biệt chúng ta vào độ trăng rằm của tài năng sáng tạo. Tết Kỷ Hợi này văn giới Việt Nam lại tưởng nhớ đến ông, một “người mở đường tinh anh” trong công cuộc đổi mới văn học.
Nguyễn Minh Châu để lại cho đời một hệ thống tác phẩm đồ sộ gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, bút kí và tiểu luận với những trang viết thấm đẫm cảm hứng nhân văn và mối quan hoài da diết với con người, cuộc đời, thiên nhiên. Qua nhiều trang - chủ yếu là kí và ghi chép - độc giả cảm nhận được hình ảnh, hương vị xuân và tết cổ truyền dân tộc trong những hình hài khác nhau, hết sức sinh động và gợi nhớ tâm cảm của người cầm bút trước sự xoay vần của thiên nhiên qua bốn mùa.
Đọc Di cảo Nguyễn Minh Châu (Nxb Hà Nội, 2009), chúng ta có dịp nhớ lại không khí tết Hà Nội những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỉ XX qua những đoạn văn ngắn trong phần thứ ba -Riêng tư của cuốn sách. Hà Nội những ngày tết năm 1957 là một đoạn ghi chép ngắn nhưng nói được nhiều điều, theo kiểu “ý tại ngôn ngoại” của thơ ca. Kể và tả cái không khí của thủ đô sau ngày giải phóng chưa lâu (10/10/1954), tác giả làm sống lại quang cảnh của một Hà Nội những năm đầu hòa bình với bao bộn bề, khó khăn và phức tạp. Nhưng vượt lên trên tất cả là niềm vui hồ hởi của cư dân Hà thành đón tết: “Mình đã dạo những phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Tràng Tiền, và những phố gì chưa thuộc hết lối. Chật ních những người. Hình như cả nước có chiếc xe đạp nào đều đem về đây hết. Mình cũng hòa trong cái dòng người sực mùi son phấn và muôn màu sắc ấy. (…) Những ngày cuối năm. Trưa chiều ngồi làm việc nghe tiếng còi tàu thét dài, những chuyến tàu chật ních người về quê ăn tết như những đàn chim về tổ khi mặt trời xuống”. Những dòng văn ấy cho thấy sự hòa nhập tức thời của người lính cách mạng với một vùng đất thiêng, nó khác hẳn cái tâm thế cũng của người lính trong Một lần tới thủ đô (1946) của Trần Đăng. (Khi đó, vào những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, có bốn chiến sĩ từ chiến khu về Hà Nội dự một lớp tập huấn ngắn ngày, họ đi giữa một Hà Nội đầy ánh sáng và len dạ nhưng vẫn đi “theo lối đi rừng” và trong một tư thế thật đặc biệt - “mắt mở mà không trông, tai lắng mà không nghe”). Hình ảnh chiếc xe đạp trong bài kí của Nguyễn Minh Châu viết năm 1957 cho ta nhận biết một thời kì gian khổ, thiếu thốn nhưng cuộc sống tràn đầy tình người.
Cũng trong phần Riêng tư của Di cảo Nguyễn Minh Châu, một đoạn văn ngắn khác về tết được ghi cụ thể hơn: “Dù sao thì một năm mới cũng đã đến. Cho đến giờ gần sáu mươi tuổi mình vẫn không hiểu nổi hai chữ mùa xuân với cái phần nghĩa bóng của nó mà người ta phết lên cái từ này với đủ thứ tùy bút của thơ văn lãng mạn” (Bốn giờ sáng mồng một Tết năm Mèo, 1987). Không phải là nhà văn không háo hức đón tết cổ truyền, không phải là nhà văn không hiểu hết cái ý nghĩa sâu xa của hai chữ mùa xuân, mà thực ra - theo tôi - hình như đây là thời điểm có những khủng hoảng trong thể chất và tinh thần của Nguyễn Minh Châu (nên nhớ lại là tiểu luận Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa của nhà văn in trên báo Văn nghệ số 49 và 50 ra ngày 5/12/1987, đến tháng 3/1988 bác sĩ phát hiện nhà văn bị bệnh ung thư máu).
Nhà văn Nguyễn Minh Châu là người đắm đuối với văn chương, tất nhiên, nhưng cũng là người đắm đuối với gia đình. Đọc lại đoạn nhật kí sau của ông trong Di cảo sẽ thấy rõ điều đó: “1/1971. Doanh, em và các con! Sáng ngày mai, 23/1 anh về quê đây. Anh đi nhờ xe của Báo Quân đội, nhưng không mang xe đạp về được, nặng lắm. Không biết về nhà được không. Anh gửi lên chỗ em số phiếu, để em mua kẻo bỏ phí. Các thứ hàng tết ngày mai mới bắt đầu bán. Doanh ạ, mấy hôm nay không hiểu sao anh buồn quá. Giá có em cùng về thì vui. Anh về nhà rồi không biết xoay xở thế nào, nhất là thương các con ở ngoài này. Tất nhiên là có em rồi. Nhưng gia đình ngày tết thiếu anh. Anh tuy nghĩ vậy nhưng cũng cố về nhà tết này, mẹ không biết còn sống được không, em cũng thông cảm cho anh. Anh rất yêu mẹ và phải về, vì còn ông Hiền nữa. Tết này em cố gắng thu xếp cho các con nó ăn tết cho đầy đủ và vui thì anh mới yên tâm. Anh chúc em sang năm mới khỏe và Tâm My Mai học giỏi và ngoan nhé. TB: Anh gửi hai tờ phiếu quý I. Tết này anh Chinh đưa các cháu về ăn tết ở 800”. Năm 1971, đang trong thời bao cấp, tem phiếu. Một nhà văn tầm cỡ như Nguyễn Minh Châu mà cũng phải bận tâm vì chuyện tem phiếu thì đủ biết cuộc sống khó khăn đến nhường nào. Những dòng văn trên cho thấy tấm lòng của nhà văn nặng nợ với đời, với nhân dân nghèo khổ nói chung, với vợ con nói riêng. Nhưng vượt lên trên thiếu thốn, nhà văn bao giờ cũng là người mưu cầu niềm vui cho người khác.
Trong Di cảo Nguyễn Minh Châu, độc giả còn tìm thấy nhiều đoạn ghi chép khác của nhà văn về tết (các trang 87, 88, 90, 167…). Nhưng có lẽ tập trung và sâu đậm nhất tình cảm của nhà văn về tết cổ truyền dân tộc là truyện ngắn Chợ tết (viết tháng 11/1987, in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội số 2/1988). Ai xa quê lâu ngày trở về quê vào dịp tết mới thấy hết cái cảm giác được đi chợ tết quê mộc mạc, sum vầy: “Quãng quá trưa, khi Định được lão Đất dắt đi dụi mả bố mẹ mình trở về thì cả khu chợ đã đông nghịt. Nhất là không khí của nó đã ra dáng một phiên chợ tết. Trên mảnh đất bom đạn và chiến tranh đã nhào nặn đến biến dạng, Định có dịp thấy tất cả những gì quen thuộc với Định từ nhỏ, chính Định cũng đã quên đi, thì nó vẫn còn đó. Định thích thú ngắm nghía những con lợn đất sơn đỏ, những chiếc kèn cũng bằng đất vắt hình con gà trống, những nhành hoa thờ với những bông hoa bằng giấy kim tuyến lỗ chỗ vết kim châm. Chen lấn giữa đám con nít bâu quanh một chiếc bàn, Định đứng xem một anh chàng đội mũ phớt tàng, mặt rỗ hoa đang vắt con giống. Từ một hàng những vắt bột nếp nhuộm màu ngũ sắc với một chiếc que tre, mười ngón tay cứ thoăn thoắt trong nháy mắt đã làm sống lại những Phàn Lê Hoa, những Quan Công… Bánh mướt, bánh xèo… Định la cà suốt một dãy bán miếng chín quen thuộc với Định từ bé. Định đi dưới giao thông hào, leo lên bờ hố bom. Các dãy hàng cá, hàng gạo, hàng vôi, hàng nồi đất. (…) Một cái gì bao quanh Định, một không khí luôn luôn bao bọc Định, đấy là sự quen thuộc, một nếp sống quen thuộc đã có từ lâu đời và chả có gì bị phá vỡ đang phô diễn trong phiên chợ tết ban đầu khiến Định say mê và rưng rưng cảm động”.
Cảm thức về mùa xuân, về tết đậm đà nhất trong bút kí Nghĩ lúc giao thừa (Nguyễn Minh Châu toàn tập, tập 4, Nxb Văn học, 2001). Bút kí này nhà văn viết ngày 3/1/1984 với sự chiêm nghiệm lẽ đời và quy luật của tạo hoá: “Mỗi lần tiễn một năm cũ và đón một năm mới về, nghe những người chung quanh nồng nhiệt và thành tâm chúc tụng nhau, tôi cứ nghĩ một cách đầy ngỡ ngàng lẫn sung sướng rằng: Không có gì cũ kĩ như một lời chúc nhau đầu năm, nhưng cũng không có gì hân hoan, mới mẻ và tinh khiết như một lời chúc nhau đầu năm. Đó là niềm lạc quan lẫn hi vọng khắc khoải, bất diệt của con người ta vào những điều tốt đẹp - những điều vẫn hằng thiết tha mong ước lẫn cho nhau - như những cánh én mùa xuân ở ngoài đời không bao giờ mất. (…) Tôi vẫn nhớ khi nhỏ còn ở nhà, mỗi đêm ba mươi tết, mẹ tôi thường nhìn ra ngoài trời, bằng cái nhìn mang phép biện chứng của một người “nhà quê” của người: Đêm ba mươi năm nào thật tối trời là năm ấy mẹ tôi lại thật yên tâm và vui mừng khấp khởi trong lòng, vì lẽ sang năm sẽ được mùa”. Chữ “giao thừa” mà nhà văn Nguyễn Minh Châu dùng còn mang một ý nghĩa khác - sự chuyển giao của hai thời kì đời sống. Vì thế mà ông coi ngày 1/5/1975 cũng là một “giao thừa” trong đời sống của cả dân tộc Việt Nam: “Tôi không thể nào quên được cái đêm mồng 1 tháng 5 năm 1975, đúng một ngày sau khi quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, cả Hà Nội đổ về phía Bờ Hồ dự đốt pháo hoa mừng đại thắng. Khi những đốm pháo hoa vừa tắt chỉ còn để lại giữa vòm trời sáng trong trên nóc Tháp Rùa những dải khói trắng, thì từ bốn phía Bờ Hồ, các nam nữ thanh niên ồn ào tản đi dạo các đường phố đông đúc của ngày hội, riêng chỉ có những cặp vợ chồng cán bộ và bộ đội ở vào lứa tuổi bốn, năm mươi, mà cuộc đời riêng đã gắn chặt vào số phận đất nước, là vẫn ngồi lại. Họ ngồi đến quá nửa đêm mà vẫn cứ muốn ngồi lại mãi. Đêm ấy mới thật là đêm giao thừa có ý nghĩa nhất đời họ”. Rồi nhà văn trở lại với ý nghĩa đích thực của “giao thừa” truyền thống, đó là giờ khắc chuyển từ năm cũ sang năm mới theo quy luật của tạo hoá, trong một nỗi niềm hân hoan, vui sướng cùng nhân dân của mình: “Giao thừa đã điểm! Khoảnh khắc thời gian tách ra làm đôi, lòng mỗi con người Việt Nam đang tìm đến nhau để sum họp, trong khói pháo và hương trầm ngào ngạt trước bàn thờ tổ tiên, lòng chúng ta sao mà bồn chồn, nao nức, rộn ràng đến khó tả”.
Một năm cũ qua đi, một năm mới lại đến, tấm lòng của nhà văn Nguyễn Minh Châu với đời, với người, với tạo hoá thật đằm thắm, sâu sắc qua những trang văn tản mạn về thời gian viết nhưng lại cô đặc nỗi niềm về xuân, tết.
Theo Bùi Việt Thắng - VNQĐ
Xuân Diệu thuộc tầng lớp trí thức Tây học nhưng từng có tới 10 năm học làm thơ cổ điển, bởi thế ông nắm rất vững các kỹ xảo thơ ca truyền thống, thấy được sự đắc địa trong các sáng tác thơ ca cổ điển để phát hiện về các điển phạm của hệ thống nhà thơ cổ điển Việt Nam.
Cùng thời điểm, nhà văn Bích Ngân giới thiệu đến bạn đọc 3 tập sách: Anh nhớ em muốn chết!, Tiếng gọi bến bờ và Đường đến cây cô đơn, do NXB Tổng hợp ấn hành.
Nhằm giúp các bạn học sinh có một nền tảng kiến thức văn học phong phú, vững vàng, NXB Kim Đồng tổ chức biên soạn Tủ sách Văn học trong nhà trường, với sự tham gia biên soạn, tuyển chọn, bình giảng của các chuyên gia uy tín trong lĩnh vực này.
Nhằm giúp các bạn học sinh có một nền tảng kiến thức văn học phong phú, vững vàng, Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức biên soạn Tủ sách Văn học trong nhà trường, với sự tham gia biên soạn, tuyển chọn, bình giảng của các chuyên gia uy tín trong lĩnh vực này.
Nhìn từ phía viết văn, nghề báo giúp người làm văn chương có cảm quan hiện thực bén nhạy, tinh tế, sự dấn thân mạnh mẽ, vốn liếng ngôn từ sống động, cập nhật. Nhìn từ phía nghề báo, năng lực văn chương giúp người làm báo kỷ luật ngôn ngữ cao độ, khả năng liên tưởng dồi dào, lối viết biến hóa và linh hoạt, và nhất là khát vọng sáng tạo những tác phẩm có sức sống lâu bền.
Nói thế vì còn có Dương Tường của báo, của thơ, của văn. Nhưng Dương Tường dịch là được biết đến nhiều nhất. Nhắc tên Dương Tường, bạn đọc cả nước đều biết đó là một dịch giả. Và đều tỏ lòng khâm phục tài dịch của ông.
Sáng 6-9, tại Nhà sách Cá Chép (115 Nguyễn Thái Học, Hà Nội) đã diễn ra buổi ra mắt bản dịch đầy đủ “Hán Sở diễn nghĩa” và giới thiệu bộ sách “Hán Sở diễn nghĩa liên hoàn họa”, với sự tham gia của dịch giả Châu Hải Đường, nhà báo Yên Ba và nhà sưu tập Từ Xuân Minh.
Có một “Tây Tiến” trong thơ và cũng có một “Tây Tiến” bằng văn xuôi. Đó chính là những gì chứa đựng trong tập hồi ký “Đoàn binh Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng vừa được nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt bạn đọc. Tập hồi ký thuật lại sinh động và chi tiết quãng thời gian Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến.
Có người trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường, có người bước chân vào quân ngũ khi đất nước đã hòa bình. Dù ở thời bình hay thời chiến, bằng tài năng và trải nghiệm của mình, họ đã và đang được xem là những nhà văn của lính, khi mang đến những tác phẩm gợi nhớ về quá khứ hào hùng.
Hội thảo "Thơ và văn xuôi ĐBSCL 45 năm" (1975 - 2020) vừa được tổ chức tại Bến Tre ngày 26-8.
Chỉ tính riêng năm 2019, ngoài các bài viết, thơ đăng rải rác trên các báo, Nguyễn Hồng Vinh đã xuất bản hai tập sách: Xanh mãi (quý 2) và Giữ lửa tập 3 (quý 3).
Nhà văn chiến trường là những người gánh trên vai 2 sứ mệnh: chiến đấu và viết. Việc viết có thể diễn ra giữa những ngày bom rơi đạn nổ, cũng có thể sau khi đã lặng im tiếng súng. Họ viết như là một sứ mệnh không chỉ cho riêng mình. Nhà văn Đoàn Tuấn là một trong những người như vậy.
Chưa khi nào chúng ta được chứng kiến một nền văn học trẻ sôi động và không ngừng cập nhật như lúc này, cho dù đang ở tình trạng được đón chào khá nồng nhiệt nhưng lại dễ dàng bị lãng quên nhanh chóng. Có người tạo được dấu ấn nhất định, có người vẫn chưa định hướng cho bản thân và sáng tác thiếu nhiều yếu tố...
Sáng ngày 8/8, NXB Trẻ tổ chức buổi ra mắt sách của 3 nữ nhà văn – nhà báo: Võ Thị Xuân Hà với tập truyện ngắn “Chuyện của các nhân vật có thật trên đời”, Thùy Dương với tiểu thuyết “Lạc lối” và Y Ban với tập truyện ngắn “Có thể có có thể không”.
Những tác phẩm được tặng thưởng và hỗ trợ hàng năm là các công trình, bài viết lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật có chất lượng tốt được các nhà xuất bản, các báo, đài, tạp chí công bố hàng năm.
Năm nay, tổng số có 86 tác phẩm, trong đó có 37 sách, 49 bài viết và chương trình phát thanh được các cơ quan, đơn vị đề nghị xét tặng thưởng.
Phan Nhân 1972 với 400 trang sách có thể xem là cuốn hồi ký của một thế hệ học sinh trường chuyên Phan Bội Châu (thành phố Vinh, Nghệ An), còn gọi là trường Phan, được xem là trường chuyên THPT đầu tiên được thành lập tại miền Bắc Việt Nam, từ năm 1974.
Khi các trường ca: Đổ bóng xuống mặt trời, Trên đường và Ngày đang mở sáng của nhà thơ Trần Anh Thái lần lượt xuất hiện vào các năm 1999, 2004, 2007 trên thi đàn, nó ngay lập tức thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình hàng đầu cùng nhiều độc giả yêu thơ.
Cả cuộc đời nhọc nhằn với những con chữ, nhà văn - nhà báo Trần Bạch Đằng đã sống trọn vẹn với cách mạng, nghề viết và đồng đội.
Ở giai đoạn nào Hoài Thanh cũng có đóng góp quan trọng cho sự nghiệp văn học của đất nước. Mỗi bài viết của ông đều ghi nhận tài năng phê bình kiệt xuất, tấm gương sống trung thực và lao động bền bỉ.