Hướng tiếp cận từ phân tâm học trong truyện ngắn việt nam sau 1975

15:22 09/06/2008
Thuyết phân tâm học của S.Freud và về sau là C.G.Jung và các người kế nghiệp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng của con người hiện đại, bao gồm cả nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực văn học nghệ thuật. Tuy vậy, ở ta, do nhiều lý do chủ quan và khách quan, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của phân tâm học trong văn học - nhất là văn học hiện đại Việt .

Trong khi đó, nhà văn - qua các giai đoạn, luôn có ý thức vận dụng những yếu tố, nội dung tích cực của phân tâm học vào trong sáng tác của mình ngày càng đa dạng, phong phú và có sáng tạo tích cực.
Thực chất của việc vận dụng những yếu tố phân tâm học vào sáng tác, các nhà văn đã có ý thức học hỏi và đạt những thành tựu đáng kể, làm cho văn xuôi nước ta có những cách tân quan trọng về thi pháp và hiệu quả nghệ thuật, nhằm thể hiện nội dung xã hội và tâm lý con người một cách vi tế và đa dạng; đồng thời thể hiện sự cách tân thi pháp, phù hợp với tầm đón nhận của độc giả thời hiện đại.
Phân tâm học du nhập vào Việt , ngay từ đầu đã chứng tỏ sức năng động của nó. Trong lĩnh vực sáng tác, các nhà văn đã có ý thức vận dụng Phân tâm học trong tác phẩm của mình. Cụ thể là từ 1930 đến 1945, các nhà văn thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán và Tự lực văn đoàn đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Phân tâm học để miêu tả tính cách nhân vật và cuộc sống một cách có hiệu quả như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nhất Linh, Khái Hưng… Chưa kể trong lĩnh vực thi ca, các thi sĩ lãng mạn cũng đã có ý thức vận dụng Phân tâm học để thể hiện sự thăng hoa cảm xúc và những trạng thái dục tính, tâm linh của mình.
Riêng ở miền Nam từ 1954 đến 1975, các nhà văn xem Phân tâm học như là lĩnh vực đắc địa nhất để thể hiện tính cách nhân vật và thị hiếu độc giả. Họ lạm dụng quá ngưỡng nhằm miêu tả cuộc sống bản năng, thác loạn, kiểu yêu đương theo lối sống gấp, sống vội và vô luân. Những nhà văn tiêu biểu cho khuynh hướng này là Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, Thuỵ Vũ, Nhã Ca…
Và đặc biệt, từ 1975 đến 2005, các nhà văn Việt Nam - đặc biệt là các nhà văn trẻ - đã có ý thức vận dụng những yếu tố tích cực của Phân tâm học (từ S.Freud đến C.G.Jung…) như là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo để xây dựng tác phẩm. Phải nói rằng, ở giai đoạn này, việc vận dụng Phân tâm học của các nhà văn đã nhuần nhuyễn hơn, đa dạng hơn; có biến hoá, tích hợp và sáng tạo mới trên cơ sở nền tảng của lý thuyết Phân tâm học. Tác phẩm của họ thực sự đem lại hiệu quả nghệ thuật mới mẻ và độc sáng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là Nguyễn Huy Thiệp, Xuân Thiều, Chu Lai, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Lập, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Hoa, Tạ Duy Anh, Nguyễn Đình Chính, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà…
Trong bài viết ngắn này, tôi muốn điểm qua những thành tựu trên qua một số tác phẩm của các tác giả tiêu biểu.
Nguyễn Huy Thiệp với Cún đã khắc hoạ tâm trạng cô đơn và bất hạnh của nhân vật Cún ngay từ lúc mới chào đời để suốt đời anh ta mang mặc cảm tàn phế đầy xa xót rằng: “anh ta không phải là người, nó kỳ hình dị dạng”. Nhưng rồi Cún cũng đã có con với cô Diệu. Và trước giây phút đứa con ra đời, Cún đã thực sự vui niềm vui “bỗng dưng được trút hết cả đi, khuây khoả lạ lùng”.
Với Ánh trăng, qua tâm lý lưỡng phân của nhân vật Hoàng, Nguyễn Bản lại vận dụng nội hàm khái niệm mặc cảm tính dục ấu thơ để khắc hoạ tâm lý cậu bé 13 tuổi biết xúc động trước chị Vân - người bà con bởi những đêm được ngủ chung với chị, nhìn “bộ đồ lót lụa màu mỡ gà qua ánh trăng” và “gương mặt tuyệt đẹp hơi ngửa như hứng trăng, hai tay vươn ra như đang đón ai, đùi nọ ấp hở đùi kia”. Hoàng đã mê hoặc “mùi phấn rơm” và “rùng mình nhận ra đùi chị mịn như nhung, lúc ấm lúc mát” để rồi “không dám cựa quậy, sợ chị rút chân về”. Những ký ức trẻ thơ đêm trăng ấy đã theo suốt cuộc đời Hoàng để rồi sau bao lần dang dở tình duyên, anh vẫn nhớ như in hình bóng chị Vân như một định mệnh trái ngang của một mối tình câm lặng, tự giấu kín trong lòng mình.
Trong lý thuyết Phân tâm học của S.Freud, có khái niệm liên quan đến vở bi kịch Ơđíp làm vua của Sophocle nói về một đứa trẻ “giết bố lấy mẹ”, sau đó, Ơđíp biết chuyện đau lòng này, anh đã chọc mù đôi mắt của mình để đi lang thang như một sự tự trừng phạt. Nhân vật Đoài và Tốn trong Không có vua của Nguyễn Huy Thiệp mang hai kiểu mặc cảm. Ở Đoài là mặc cảm Ơđíp. Anh ta ham muốn chị dâu đến mức vì bảo vệ Sinh mà có thể sẽ giết chết anh trai của mình “anh mà đụng vào cô ấy là tôi chém liền”, “Nếu Sinh yêu tôi, tôi sẽ gây sự tống cổ anh ra đường”. Còn ở Tốn dù “bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng” nhưng trong bản năng vô thức vẫn muốn đem lại niềm vui cho mọi người, đặc biệt là với chị dâu (Sinh) nên lúc nào cũng vừa quét nhà vừa hát câu hát đầy gợi tình do hắn nghĩ ra: “Tớ với mình dây dưa, tình với tính hay chưa?”. Kiểu mặc cảm này đối với nữ giới được Phạm Hoa và Nguyễn Thị Thu Huệ khai thác ở góc khuất nội tâm đặc biệt. Đó là sự ganh ghét đến bệnh hoạn của một người đàn bà đối với một người đàn bà khác đang được hạnh phúc và sung sướng trong vật chất và tình yêu. Ở đây, được các nhà văn miêu tả thành các dạng thức: Lòng ghen của mẹ chồng đối với con dâu. Bà Thuận (Đùa của tạo hoá - Phạm Hoa) vì quá yêu thương thằng Tuấn - con trai duy nhất của mình đến nỗi phải ghen với Loan - cô dâu xinh đẹp nhất làng do bà dày công kén chọn. Dạng thứ hai là mâu thuẫn giữa người em đối với người chị. Đó là Mỵ - người luôn bị bản năng tính dục chi phối nên cô luôn ganh tị với hạnh phúc của chị mình vì chị được sung sướng, được ở thành phố và được chồng yêu thương hết mực, dù “chị đã hết thời, vừa già vừa xấu hơn cô rất nhiều”. Có lúc lòng ghen đó lên đến đỉnh cao qua sự đôi co, xúc phạm đến người chị.
Cùng vận dụng các kiểu mặc cảm trên, còn có nhiều tác giả thể hiện thành công: Chị Hai ơi! (Trần Thuỳ Mai), Tầm tã mưa ơi! (Nguyễn Bản), Vũ điệu của cái bô (Nguyễn Quang Thân), Bóng đè (Đỗ Hoàng Diệu)… Ở nội tâm nhân vật có sự đấu tranh quyết liệt giữa ý thức và vô thức để dẫn đến hành động vừa lưỡng phân, vừa bất ổn để gây ra sự xáo động trong hành vi - đặc biệt là hành vi tính dục. Chúng tôi đơn cử Năm ngày của Phạm Thị Hoài. Nhân vật Vi và người chồng luôn phải đấu tranh giữa sự rạn vỡ và bản năng tính dục trong cuộc sống thường nhật giữa ngày và đêm. Ngày thì lãnh cảm, nhăn nhúm; đêm thì nhục cảm, trụi trần. Đêm là lúc vô thức thắng ý thức nên bản năng tính dục đã dẫn dắt họ vượt qua sự thờ ơ ban ngày để thoả mãn diễn cái trò ái ân muôn thuở của nhân loại đến nỗi người chồng lúc nào “cũng có gương mặt đần độn vì hạnh phúc”. Truyện có kết cục bất ngờ, khi Vi - người vợ bỏ đi để tìm ý nghĩa sự sống đích thực của mình.
Trong Chị Hai ơi! (Trần Thuỳ Mai), mối tình của Út Hiệp (21 tuổi) và chị Trúc (goá phụ 27 tuổi) diễn ra một cách mãnh liệt mà xuất phát điểm là ở Hiệp - từ xúc động hoàn cảnh chị Trúc đã đi đến cảm mến và ham muốn được gần gũi và ân ái với chị Trúc. Và cuối cùng là Út Hiệp nhận lấy vết cắn của chị Trúc. Nhưng trớ trêu thay, đến lượt mình, sự phản kháng của chị Trúc cũng bị ngủ quên, để không thể thờ ơ trước vẻ đẹp và sức quyến rũ của chàng trai nhỏ hơn mình 6 tuổi.
Truyền thuyết về quán Tiên của Xuân Thiều cũng ở dạng này, nhưng đặc biệt hơn. Nhân vật Tuyết Lan bị bệnh tâm thần (hystérie) và cuối cùng đã giải phóng ức chế (refoulement) bằng việc quan hệ với cu Hon - người cùng phục vụ tại quán Tiên. Hoặc chị Mùi cũng vậy, vì phải đè nén và bị ám ảnh cao độ trước nhiều tình huống, trong đó có sự hối hận vì đã lấy thân thể của mình để giết chú khỉ (biệt danh là dũng sĩ áo đen thắt nơ trắng). Sau đó, chị bị ức chế và khóc rũ rượi trong đêm với sự giận hờn rằng con người không hiểu mình. Và cũng vì tình trạng này mà chị Mùi đã không có mặt trên cõi đời này trước sự thờ ơ và hiểu lầm của đồng đội.
Hai tác phẩm Người suy tưNgười đoán mộng giỏi nhất thế gian của Phạm Thị Hoài đặt ra hai tâm trạng và suy nghĩ rất đặc biệt. Một người luôn chìm đắm trong suy tư, dửng dưng với các mối quan hệ chung quanh, một người luôn hiện hữu những giấc mơ đến quái gỡ, mê muội, để rồi cả hai đều dẫn đến tình trạng, một thì bị ghép tội “hành nghề mê tín dị đoan có hệ thống, có tổ chức”; còn một thì luôn luôn nghĩ đến đàn bà để khẳng định cái tôi dục năng của mình. Ngoài những phức cảm mà Phân tâm học quan tâm được các nhà văn vận dụng đa dạng, sáng tạo như trên, ta thấy còn có vấn đề then chốt của Phân tâm học là giấc mơ cũng được họ tiếp thu và thể hiện rất có hiệu quả. Đùa của tạo hoá của Phạm Hoa, Người suy tư của Phạm Thị Hoài, trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Đỗ Hoàng Diệu… thể hiện giấc mơ như là một thủ pháp nghệ thuật rất thành công. Bà Thuận (Đùa của tạo hoá) luôn mơ trong cơn hưng phấn đặc biệt, khiến bà như mệt lả vì ức chế.
Thông thường, trong thực tế những ước mơ của con người - nhất là về dục tính nếu không thực hiện được sẽ dẫn đến rối loạn, ức chế, khi ấy, trạng thái lưỡng phân giữa ý thức và vô thức càng đẩy nhân vật đến những hành vi không bình thường. Đó là triệu chứng của những bản năng thác loạn và ám ảnh tâm linh, làm cho con người không làm chủ được mình trong từng tình huống, dẫn đến sự đau khổ, dằn vặt, uất ức. Thổ cẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Xin hãy tin em của Nguyễn Thị Thu Huệ, Yêu pháp của Triệu Thuấn, gần đây nhất là Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư… và nhiều tác giả, tác phẩm khác, nhưng trong bài viết ngắn này chúng tôi không có dịp để minh chứng một cách đầy đủ.
Sự phức cảm, phức điệu trong cuộc sống tâm lý của từng cá nhân được các nhà văn ngày càng quan tâm khắc hoạ đa dạng, biến ảo, giúp ta thấy được sự sáng tạo của họ là đáng ghi nhận. Họ không chỉ vận dụng rập khuôn, máy móc mà thật ra, họ sáng tạo lại Phân tâm học và lý giải từ góc nhìn nghệ thuật. Các tác giả lớp sau càng dày dặn và kinh nghiệm trong việc khẳng định bút pháp của mình như: Người sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), Truyền thuyết về quán Tiên (Xuân Thiều), Vũ điệu của cái bô (Nguyễn Quang Thân), Sông lấp (Nguyễn Bản), Mại (Nguyễn Thị Thu Huệ), Goá phụ đen (Võ Thị Hảo), Lửa của khoảnh khắc (Trần Thuỳ Mai), Năm ngày (Phạm Thị Hoài), Hạnh phúc trần gian (Từ Nguyên Tĩnh), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)… Qua điểm tựa của các yếu tố Phân tâm học, các tác giả thoả sức thể hiện thế giới nội tâm phức tạp của con người trong từng thời khắc, từng hoàn cảnh.

Trong không khí hội nhập của thời hiện đại và đương đại, có thể nói Phân tâm học có điều kiện phát triển, khẳng định lại vai trò của mình trong đời sống tâm-sinh-lý của con người. Và dĩ nhiên là trong phạm trù nghệ thuật, Phân tâm học lại được vận dụng đa dạng, có sự cách tân đáng kể để phù hợp với con người cá nhân cá thể trong ý thức sáng tạo của nhà văn. Và may thay, chúng không mất đi, không trở thành vô nghĩa mà là những giá trị, những đặc trưng nghệ thuật độc sáng trong dòng chung của truyện ngắn hiện đại Việt Nam 1975-2005, tạo ra những tích hợp nghệ thuật mới, làm hiện lên bức tranh cuộc đời đầy đa đoan và phức tạp. Và quan trọng hơn là tạo ra tính hiện đại cho truyện ngắn 1975-2005 với các kiểu thể hiện theo “dòng ý thức”, “cách viết tự động”, lắp ghép kiểu điện ảnh, và phần nào vận dụng đến yếu tố trực giác, ấn tượng, huyền ảo, tâm linh, vô thức, tiềm thức để khắc hoạ tính cách và tâm lý nhân vật vi tế và đa dạng hơn, phù hợp với cấu trúc nội tâm và con người hiện đại. Đó là điều đáng ghi nhận của văn học nói chung và truyện ngắn sau 1975 nói riêng. Chúng ta có quyền hy vọng vào sự phát triển trên cơ sở pháthay của các tác giả trẻ với trình độ điêu luyện hơn, hoàn hảo hơn. Và vì vậy, Phân tâm học vẫn đang là thành tựu chưa kết thúc. Nó đang hướng về đường chân trời của những thể nghiệm mới.

HỒ THẾ HÀ
(nguồn: TCSH số 232 - 06 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.