Huế trong “Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á” của UNESCO

11:16 12/07/2010
LÊ VĂN HẢOTháng 12 năm 1979 tại thành phố Pitxanulôcơ (Pitsanulok) Thái Lan, ông Tổng Giám đốc Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (gọi tắt là UNESCO) đã triệu tập một cuộc họp của những chuyên gia nhằm chuẩn bị cho một Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á. Chương trình này sẽ nhằm vào một số đô thành cổ kính đã từng đóng những vai trò có ý nghĩa trong sự phát triển và giao lưu của các nền văn hoá ở châu Á.

Ảnh: cuocsongviet.com.vn

Cuộc họp quan trọng này đã nhấn mạnh rằng các đô thành lịch sử được đưa vào chương trình nghiên cứu sẽ được tìm hiểu phân tích lý giải trong bối cảnh địa lý, chính trị và kinh tế của chúng, cũng như trong những hoạt động văn hoá - theo nghĩa rộng nhất - của chúng (1). Các chuyên gia của UNESCO đã quyết định rằng chương trình nghiên cứu này sẽ huy động nhiều cuộc khảo sát liên ngành và đa diện dính dáng đến các nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ học, xã hội học, dân tộc học, khoa học kiến trúc và quy hoạch đô thị, lịch sử mỹ thuật và mỹ nghệ, lịch sử tôn giáo, địa lý học, ngôn ngữ học, cổ tự học, cổ tiền học, chính trị học, kinh tế học, giáo dục học, nghiên cứu văn học, nông học, địa chất học, địa hình học, thực vật học, âm nhạc học, sân khấu học…

Mục tiêu của chương trình là tăng cường sự hiểu biết của các nền văn hoá châu Á trong thời gian và không gian, vì thế công cuộc nghiên cứu sẽ không nhằm khảo sát phân tích từng đô thị riêng rẽ, ngược lại các đô thành cổ này sẽ được nghiên cứu trong bối cảnh chung của lịch sử và của văn hoá toàn châu Á. Một phương hướng nghiên cứu như vậy sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm về sự phân loại các đô thành và các nền văn hoá, về những tiến trình lịch sử của chúng, những giao lưu và ảnh hưởng qua lại giữa các đô thành và các nền văn hoá trong quá khứ cũng như những hậu quả của giao lưu văn hoá và tiếp biến văn hoá (2) trong tương lai.

Để đạt được các mục tiêu nêu trên, công cuộc nghiên cứu về mỗi một đô thành đòi hỏi sự hợp tác khu vực dưới hình thức hội thảo có sự tham dự của những chuyên gia đến từ các vùng khác nhau của châu Á nhằm có thể tiến hành so sánh đô thành ấy với các đô thành cổ khác ở châu này.

Các chuyên gia họp tại Pitsanulok cũng quyết định rằng các đô thành sẽ được chọn đưa vào chương trình sau khi đã tham khảo các quan điểm phát biểu từ các khu vực, liên khu vực và các dân tộc khác nhau ở châu Á.

Tiêu chuẩn lựa chọn sẽ liên quan đến ý nghĩa của những đô thành lịch sử trong quá khứ châu Á nhìn từ phương diện hiện đại và cả từ phương diện tìm hiểu khả năng của các đô thành trở nên những trung tâm tập hợp trí tuệ và phát triển văn hoá trong tương lai.

Sau cuộc họp Pitsanulok, một kế hoạch nghiên cứu 6 năm (1980-1985) đã được phác họa cho Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử được đặt dưới sự bảo trợ và tài trợ chính thức của UNESCO. Các đô thành sau đây đã được ghi vào trong chương trình:

- Nara, kinh đô cũ của Nhật Bản.

- Huế, kinh đô cũ của Việt Nam.

- Kanchipuram, đô thành cổ của Ấn Độ.

- Kyongju, đô thành cổ của Nam Triều Tiên.

- Bình Nhưỡng, thủ đô của Cộng hòa Nhân dân triều Tiên.

- Sukhothat, kinh đô cũ của Thái Lan.

- Taxila, đô thành cổ của Pakistan.

- Trường An, kinh đô cũ của Trung Quốc (3).

Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á đã được UNESCO giao cho Hội đồng Tư Vấn Nghiên cứu Đông Nam Á của UNESCO trực tiếp phụ trách triển khai. Hội đồng Tư Vấn này là một cơ quan khoa học có tính chất khu vực đặt trụ sở bên cạnh văn phòng văn hoá và văn phòng giáo dục của UNESCO ở châu Á và Thái Bình Dương tại Thủ đô Băng cốc của Thái Lan. Cơ quan ngôn luận của Hội đồng này là tập san thông tin của Hội đồng Tư Vấn nghiên cứu Đông Nam Á xuất bản thường kỳ bằng tiếng Anh tại Băng cốc từ 1980 đến nay.

Tập san thông tin của Hội đồng Tư Vấn Nghiên cứu Đông Nam Á tập 3 số 2 tháng 12 năm 1982 đã được dành để giới thiệu và sơ kết những hoạt động của chương trình nghiên cứu các đô thành cổ ở châu Á (trang 1-5) bên cạnh một số hoạt động văn hoá và nghiên cứu khoa học khác của UNESCO tại liên khu vực châu Á và Thái Bình Dương.

Tập san đã giới thiệu mục đích và phương hướng của chương trình nghiên cứu, danh mục các đô thành lịch sử đã được chọn và thông báo rằng một phần của chương trình bao gồm công cuộc nghiên cứu Huế kinh đô cũ của Việt Nam và Sukhothat kinh đô cũ của Thái Lan đã hoàn thành bước đầu trong những năm 1980-1981 và 1981-82 (4).

Các đô thành lịch sử khác là Nara, Kanchipuram, Kyongju, Bình Nhưỡng, Taxila, Trường An, đang được đang được tiếp tục nghiên cứu và dự đoán là vào khoảng 1984-85 chương trình nghiên cứu sẽ được hoàn tất.

Tập san thông tin của Hội đồng Tư Vấn Nghiên cứu Đông Nam Á tập 3 số 2 tháng 12 năm 1982 cũng trích đăng 3 trang về Di tích lịch sử Huế của Lê Văn Hảo (5) và 2 trang về Nghiên cứu đô thành lịch sử Sukhothat giới thiệu cuốn Đô thành lịch sử Sukhothat do M. Thaumcharoen, R. Topengpat và V. Boonak chủ biên với sự hợp tác của nhiều chuyên gia thuộc các trường Đại học Thái Lan.

Tập san cũng thông báo: Nhóm công tác của cuộc vận động Quốc tế nhằm bảo vệ và tôn tạo di sản văn hoá Huế đã họp phiên thứ nhất (24/11 - 2/12/1982) và sẽ họp phiên thứ hai (từ 24 - 29/10/1983) tại Hà Nội và Huế.

Tập san nhắc lại cho chúng ta biết: năm 1980 Đại hội đồng UNESCO đã bỏ phiếu thông qua một kế hoạch hành động nhằm tu sửa 17 di tích lịch sử của cố đô Huế, một trung tâm văn hoá và du lịch của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay.

Việc UNESCO chọn Huế là một trong 8 khu di tích lịch sử trên thế giới để tu sửa và tôn tạo (6) trong kế hoạch sáu năm 1980-1985, rồi lại chọn Huế là một trong 8 đô thành lịch sử của châu Á để đưa vào kế hoạch sáu năm 1980-1985 của chương trình nghiên cứu vừa nói lên sự thừa nhận của quốc tế đối với ý nghĩa, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Huế trong tiến trình lịch sử văn hoá châu Á.

Điều này cũng gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ về trách nhiệm của mỗi chúng ta đối với việc tìm hiểu Huế và góp phần xây dựng Huế thành một trung tâm văn hoá và du lịch của đất nước (7). Chúng ta hoan nghênh việc Đảng bộ và chính quyền thành phố Huế đã chủ trương nghiên cứu và biên soạn lịch sử Huế (8). Chúng ta cũng vui mừng và phấn khởi thấy nhiều cơ quan văn hoá, cơ quan nghiên cứu khoa học ở Trung ương như Viện Sử học, Viện nghiên cứu văn hoá … ngày càng quan tâm đến việc nghiên cứu lịch sử và văn hoá Huế, hỗ trợ đắc lực cho những cố gắng và nhiệt tình của nhiều nhà nghiên cứu địa phương, nhà văn và nghệ sĩ đã miệt mài với đề tài Huế trong những năm qua.

L.V.H.
(1/5&6-83)



-----------------
1. Nghĩa là bao gồm cả văn hoá vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần.
2. acculturation.
3. Tư liệu của Hội đồng Tư Vấn Nghiên cứu Đông Nam Á do Ủy ban quốc gia UNESCO của Việt Nam cung cấp.
4. Riêng về Huế, như chúng ta đã biết từ 1979 đến nay, UNESCO đã xuất bản các công trình sau đây:
- Di tích lịch sử Huế của Pierre Pichard, UNESCO xuất bản, Paris 1979, 100 trang.
- Châu Á vĩ đại và quang vinh, Trung tâm văn hoá châu Á của UNESCO (ACCI) xuất bản, Tokyo, 1981, 100 trang (bản tiếng Anh) có phần nói về cố đô Huế do Lý Khắc Cung biên soạn.
- Vì công cuộc bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế, lời kêu gọi của ông Tổng Giám đốc UNESCO A.M.M’Bow, UNESCO xuất bản, 4 trang (bản tiếng Nga, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Ả rập, Việt)
- Huế, một trung tâm văn hoá và du lịch của Việt Nam của Lê Văn Hảo và cộng tác viên, nhà xuất bản UNESCO Paris 1982, 44 trang (bản tiếng Nga, Pháp, Anh) do ông A.M.M’Bow đề tựa.
- Huế một bài thơ đô thị tuyệt tác, của Lê Văn Hảo và cộng tác viên, nhà xuất bản Đông Nam Á Paris 1982 ấn hành với sự tài trợ của Quỹ Quốc tế phát triển văn hoá của UNESCO, 200 trang (bản tiếng Pháp) do ông A.M.M’Bow đề tựa, đại sứ Vũ Trọng Kính giới thiệu.
5. Trích từ tác phẩm “Huế một bài thơ đô thị tuyệt tác”, sách đã dẫn.
6. Các khu di tích lịch sử khác là thuộc các nước Pêru, Haiti, Malta, Guaranitx, Xênêgan, Sri Lanka và Mauritania.
7. Xem thêm: Huế, một trung tâm văn hoá lớn của đất nước ta, từ hôm nay đến ngày mai, tập san văn nghệ Bình Trị Thiên, số 271, 1982 tr. 70-74.
8. Xem nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Huế lần thứ II (1982)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.

  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...