Đối với họa sĩ, để đi đến trừu tượng hay trạng thái “không gì cả”, anh ta đã phải cần đến rất nhiều thứ.
De Kooning, Woman I, sơn dầu, 147.3 x 192.7 cm, 1952, Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, New York
Những thứ này luôn là các sự vật trong đời sống - một con ngựa, một bông hoa, một cô gái vắt sữa, ánh sáng rọi vào phòng qua một ô cửa kính hình thoi, những cái bàn, cái ghế, v.v... Đúng là không phải lúc nào họa sĩ cũng hoàn toàn tự do. Các sự vật không phải bao giờ cũng là lựa chọn của tự thân anh ta, song cũng chính vì thế, anh ta lại có thể nảy sinh những ý tưởng mới. Một số họa sĩ thích vẽ những sự vật đã được người khác chọn rồi, và sau khi trừu tượng hóa chúng, họ được gọi là những nhà cổ điển. Người khác lại muốn chọn bản thân các sự vật, và sau khi trừu tượng hóa chúng, họ được gọi là các họa sĩ lãng mạn. Dĩ nhiên, cũng có sự nhập nhằng giữa những cách định danh. Song dù thế nào, khi ấy, họ không trừu tượng hóa những gì đã trừu tượng. Họ giải phóng hình dạng, ánh sáng, màu sắc, không gian, bằng cách đặt chúng vào các sự vật cụ thể trong một tình huống cho trước. Họ có nghĩ đến khả năng các sự vật - con ngựa, cái ghế, con người - là những sự trừu tượng, song họ mặc kệ, vì nếu cứ nghĩ về điều này, họ sẽ đi đến chỗ phải từ bỏ hội họa và thay vào đó giam mình trong tháp ngà của triết gia. Khi họa sĩ có những tư tưởng lạ kỳ, sâu sắc, họ rũ bỏ chúng bằng cách vẽ một nụ cười đặc biệt lên một trong số những khuôn mặt trên bức tranh mà họ đang vẽ.
Kandinsky hiểu “hình thức” (form) như là một hình thức cụ thể nào đó, tựa một vật thể trong thế giới thực và một vật thể, như ông nói, là một tự sự - do đó, dĩ nhiên, ông không chấp nhận nó. Ông muốn một thứ “nhạc không lời”. Ông muốn trở nên “đơn giản như một đứa trẻ”. Ông muốn, với “bản ngã bên trong” của mình, dứt mình khỏi “những chướng ngại kiểu triết học” (thế nên ông đã ngồi xuống và viết về tất cả những điều này). Nhưng rồi chính những trang viết của ông lại trở thành một thứ “chướng ngại kiểu triết học”, dù đó là một chướng ngại vật đầy lỗ hổng. Nó gần với tư tưởng Phật giáo, nhưng theo kiểu Trung Âu, hay là một thuyết thần trí (theosophic) nào đó đối với tôi.
Tình cảm của các nhà Vị lai đơn giản hơn. Không có chỗ nghỉ. Mọi thứ cứ thế mà diễn tiến! Đó có thể là lý do vì sao mà trong tác phẩm của họ, mọi thứ đều ở trạng thái tự động. Hoặc con người là một cỗ máy, hoặc là một sự hiến sinh để tạo thành những cỗ máy.
Khuynh hướng đạo đức của những nghệ sĩ chủ trương phong cách Tân tạo hình (Neoplasticism) rất gần với những nghệ sĩ của trào lưu Chủ nghĩa Kiến tạo (Constructivist), ngoại trừ việc các nhà Kiến tạo muốn phơi lộ công khai các sự vật trong khi các nhà Tân tạo hình lại không muốn để lại bất cứ cái gì.
Tôi học hỏi được rất nhiều từ họ mà họ cũng làm tôi rối trí rất nhiều. Chỉ có một điều chắc chắn, họ không trao cho tôi năng khiếu tự nhiên về hội họa. Và giờ, tôi hoàn toàn mỏi mệt bởi các ý tưởng của họ.
Về mặt tinh thần, tôi hiện hữu ở bất cứ đâu tinh thần của tôi cho phép và không nhất thiết, đó phải là ở tương lai. Nhưng tôi cũng không phải là kẻ hoài cổ. Nếu tôi đứng trước dù chỉ một tác phẩm nghệ thuật nhỏ của văn minh Lưỡng Hà, tôi không có xúc cảm hoài niệm nào cả ngoại trừ một nỗi lo âu, Nghệ thuật dường như chưa bao giờ làm tôi thanh thản hay tĩnh tâm. Tôi luôn tự cảm thấy mình bị vây bủa trong tấn kịch của sự tầm thường. Tôi không nghĩ đứng ở trong hay ở ngoài - tôi cũng không nghĩ đến nghệ thuật nói chung - như một niềm an ủi. Tôi biết có một ý tưởng tuyệt vời ở đâu đó, song cứ nghĩ đến việc phải đi vào tận bên trong nó, tự nhiên tôi lại thấy hờ hững, chỉ muốn nằm xuống và ngủ. Một vài họa sĩ, trong đó có tôi, chẳng bận tâm xem mình đang ngồi trên chiếc ghế nào. Cũng chẳng nhất thiết đó phải là một chiếc ghế dễ chịu. Họ rất căng thẳng khi phải tìm chiếc ghế nào mình nên ngồi. Họ không muốn “ngồi đúng phong cách”. Đúng hơn, họ nhận thấy hội họa - dù theo thể loại nào, phong cách nào đi nữa, miễn là hội họa - trên thực tế, là cách ta sống hôm nay, vẽ là sự thể hiện một phong cách sống. Hình thức nằm ở đó. Chính trong tính vô dụng của mình, hội họa trở nên tự do. Những họa sĩ ấy không muốn làm theo những khuôn mẫu. Họ chỉ muốn được gợi cảm hứng.
Có một luận điểm thường được nhắc lại: khoa học thực chất mang tính trừu tượng, hội họa có thể giống như âm nhạc, và vì lý do này, anh không thể vẽ một người đàn ông dựa vào cột đèn được, vẽ thế thì thật lố bịch. Cái không gian của khoa học - không gian của các nhà vật lý - là thứ giờ đây làm tôi phát chán. Cặp thấu kính của họ quá dày đến nỗi nhìn qua đó, không gian càng trở nên u ám, buồn bã hơn. Dường như không có điểm tận cùng cho nỗi khổ sở khi bị bó hẹp trong không gian của các nhà khoa học. Tất cả những gì nó chứa đựng là hàng tỉ, hàng tỉ các tảng vật chất, ở trạng thái nóng hay lạnh, trôi nổi mịt mùng, theo một thiết kế vĩ đại vô mục đích. Những ngôi sao mà tôi mơ tưởng đến, theo hình dung xưa cũ ngây thơ, tôi có thể chạm tới chúng chỉ trong mấy ngày. Nhưng những ngôi sao của các nhà vật lý mà tôi sử dụng như chiếc khuy, chúng cài những tấm rèm phủ che sự trống rỗng. Nếu tôi cố rướn tay lên hết sức và hình dung xem ngón tay mình ở chỗ nào, thì đó chính là tất cả không gian mà tôi cần để trở thành một họa sĩ.
Về phần mình, tôi không cần đến một trào lưu nào. Những gì được trao cho tôi, tôi tiếp nhận một cách tự nhiên. Trong số tất cả các trào lưu, tôi thích Chủ nghĩa Lập thể hơn cả. Nó mở ra một không gian suy tưởng rất bất định nhưng kỳ diệu - một không gian mang tính thơ nơi một cái gì đó có thể khả hữu, nơi một họa sĩ có thể thể nghiệm trực giác của mình. Nó không đòi rũ bỏ những gì đã có trước đó. Thay vào đó, nó bổ sung một cái gì đó khác. Những gì tôi lĩnh hội được ở các trào lưu khác đều phát xuất từ Chủ nghĩa Lập thể. Chủ nghĩa Lập thể đã trở thành một trào lưu, nó không chủ định như thế ngay từ đầu.
Willem de Kooning
De Kooning (1904-1997) học hội họa ở Hà Lan trước khi đến Mỹ năm 1926, nơi ông sẽ tiếp tục đào luyện, trang bị cho mình nhiều nhận thức để đương đầu với những quy phạm đã trở nên cũ kỹ của nghệ thuật hiện đại. Các tác phẩm của ông, bắt đầu từ cuối thập niên 1940, đã thể hiện những cách tân mang tính đột phá, táo bạo với bút pháp ngẫu hứng, phóng khoáng. Nhà phê bình Harold Rosenberg đã gọi hội họa của ông bằng thuật ngữ “Hội họa hành động” (Action Painting). Ông là một đại diện xuất sắc của Chủ nghĩa Trừu tượng Biểu hiện- một trào lưu quan trọng của Hội họa Hoa Kỳ sau Thế chiến II. |
Nguồn: Hải Ngọc - Tia Sáng
(Theo Twentieth - Century Artists on Arts, Dore Ashton biên tập, NY:Pantheon Books, 1985, trang 197-199.)
HẠ NGUYÊN
Từ ngày 3/9 đến 12/9, danh họa Nguyễn Đại Giang đã về Huế bày tranh nghệ thuật đảo ngược. Một cuộc triển lãm kỳ thú, và cả những hoạt động của ông cũng góp phần làm cho Huế sôi động: vẽ ký họa chân dung cho công chúng, nói chuyện với sinh viên Đại học Nghệ thuật Huế, tặng cho Bảo tàng Mỹ thuật Huế 3 bức tranh, trong đó có bức “Ca Huế trên sông Hương” thật sự tuyệt mỹ …
TUỆ NGỌC
Có lẽ, trong lĩnh vực hội họa khó có nữ họa sĩ nào hơn được Frida Kahlo trong việc biến nỗi đau thành suối nguồn nghệ thuật.
HUỆ VIÊN
Công án - một phương pháp khai phóng tư duy
Trong các công án Thiền, có rất nhiều cách giáo hóa của các vị chân sư rất phũ phàng, thậm chí điên khùng, nhưng nó lại có tác dụng kì lạ, làm cho học trò kinh ngạc, bất ngờ giác ngộ.
TUỆ NGỌC
TUỆ NGỌC
Lê Anh Hoài là người thực hành nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực như văn học, hội họa, trình diễn...
TUỆ NGỌC
TUỆ NGỌC
LÊ HUỲNH LÂM
"Nghệ thuật không phải là vẽ lại các đồ vật, con người mà họa sĩ thấy. Nghệ thuật phải là sáng tạo nên các đồ vật, con người không thấy được."(Paul Klee)
LÊ HUỲNH LÂM
Tánh nước vốn vô hình và mềm mại. Nhưng nước lại có quyền năng biến hiện và tùy duyên hóa thân thành mọi vật, có khi là đám mây, khi là cơn mưa, có khi làm ngọn sóng cao vút nhấn chìm mọi vật, có lúc là những đợt sóng êm đềm, là dòng sông, con suối, là thác ghềnh, là biển cả bao la,... lại có khi là giọt lệ trên khóe mắt con người. Tuy nước rất mềm mại nhưng sức mạnh của nước có thể xô ngã mọi tượng đài tưởng chừng là thường hằng ở mặt đất này.
LÊ HUỲNH LÂM
Sản phẩm từ cái khuôn mẫu đầu tiên đã đặt định con người trong thế bị động, và từ khởi thủy đầy hư cấu và huyền thoại đó bao nhiêu trí tưởng tượng đã được tạo dựng, việc chế tác một khuôn mẫu mới cho con người đã được đề cập đến nhiều lần.
Nhiều điều bí ẩn giấu đằng sau những chi tiết có thể nhìn thấy bằng mắt thường trong bức tranh "Susanna and the Elders" (Susanna và các Trưởng lão) của họa sỹ nổi tiếng thế giới người Hà Lan Rembrandt van Rijn vừa được công bố trên tạp chí Khoa học Vật liệu và Chế tạo số ra mới đây.
Các tác phẩm chọn lọc của thế hệ các nghệ sỹ trẻ Đức sẽ được quy tụ và giới thiệu đến công chúng thủ đô Hà Nội trong không gian triển lãm “Hội họa mới từ Đức,” khai mạc vào 17 giờ ngày 14/05 và trưng bày tới hết ngày 31/05, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 66 Nguyễn Thái Học.
LTS: Họa sĩ Lê Bá Đảng sinh ngày 27/6/1921 tại làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông đã ra đi vào ngày 7/3 tại Thủ đô Paris nước Pháp, để lại dự án dang dở đáng tiếc về “một bức tranh rất lớn nằm ngửa trên mặt đất”, ước mong góp phần cho Huế trở nên một Kinh đô Mỹ thuật.
Sông Hương giới thiệu “lời chia buồn sâu sắc” đọc trong Lễ tưởng niệm họa sĩ Lê Bá Đảng của tỉnh Thừa thiên Huế vào chiều 9/3 tại Trung tâm Nghệ thuật mang tên ông.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc Van Gogh của David Haziot, Phan Hồng Hạnh chuyển ngữ, Nxb. Đà Nẵng, 2014)
...Nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa ảo giác (illusionist) đều xem nhẹ phương tiện, chúng dùng nghệ thuật để che giấu nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện đại lại dùng nghệ thuật để thu hút sự chú ý vào nghệ thuật.
“Từ mô phỏng đến phá hủy tự nhiên”: đây hoàn toàn có thể là nhan đề của một lịch sử nghệ thuật phương Tây. Một trong những nghệ sĩ hiện đại quan trọng nhất, và cũng có lẽ hiền minh nhất, Picasso, có nói: nếu chúng ta không thể thoát khỏi tự nhiên, như một số nghệ sĩ tiền bối và đương thời với ông đang cố gắng một cách vô ích, thì ít nhất chúng ta có thể làm biến dạng nó, phá hủy nó. Về cơ bản, đó chính là một hình thức mới của lòng sùng kính tự nhiên...
Năm mới là thời điểm của những tiệc tùng liên miên. Hội họa từ lâu đã rất quan tâm tới chủ đề này. Hãy cùng nhìn lại những bữa tiệc linh đình, nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa.
Trong tiếng Hy Lạp cổ, từ chỉ “nghệ thuật” là techne, chính là nguồn gốc của các từ technique (kĩ thuật) và technology (công nghệ) - những thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong cả ngành khoa học và nghệ thuật. Nhìn vào hội họa thế kỷ 19, ta nhận thấy các họa sĩ thực sự là những kỹ sư ánh sáng và màu sắc tài tình.
Một ngày nọ, khi vẽ một thiếu nữ, tôi chợt nhận ra điểm duy nhất sống động ấy là ánh nhìn như bất động của nàng. Những thứ còn lại có ý nghĩa không hơn gì cái sọ người. Người ta luôn muốn tạc nên một con người sống, nhưng điều khiến pho tượng ấy có sự sống chỉ có thể là ánh nhìn của người đó.
Các nghệ sĩ nữ thường là bộ phận ngoại vi trong những mô tả về tiến trình lịch sử, không chỉ của hội họa mà còn của nhiều loại hình nghệ thuật khác. Nhưng thực sự chính từ những nghệ sĩ nữ, những ý tưởng nghệ thuật táo báo, đột phá nhất, gây ảnh hưởng lớn thường được khai sinh. Ba nghệ sĩ nữ được giới thiệu trong chùm bài viết này đã cho thấy sự trực cảm, tinh nhạy và quyết liệt ở họ đã mở ra những cách tiếp cận nghệ thuật bất ngờ và giàu sức sống cho đến tận bây giờ.