Hoành phi, câu đối bằng chữ Quốc ngữ: hồn Trương Ba da hàng thịt

08:44 12/07/2016

Bài viết này không có tính chất học thuật chuyên sâu, để tưởng nhớ giáo sư Cao Xuân Hạo - người thầy mà tôi không có cơ hội được học.

Các bức hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng tại chùa Bổ Đà Bắc Giang.

Đây chỉ là những suy nghĩ cá nhân về một vấn đề đang được tranh luận hiện nay trong nước, mặc dù việc thực hiện thì đã xảy ra từ lâu. Đó là việc thay chữ Hán bằng chữ Quốc ngữ trong các hoành phi, câu đối ở các di tích, công trình lịch sử tôn giáo.

Ở các nước Á đông trong những thế kỷ trước, chữ Hán có vai trò gần như tiếng Anh hiện nay trên thế giới, như một lingua franca, một ngôn ngữ giao tiếp giữa những người nói các thứ tiếng khác nhau, có khác chăng là hiện nay ta nói tiếng Anh, còn ngày xưa người ta bút đàm, tức là giao tiếp bằng cách viết chữ Hán với nhau. Từ đầu những năm đầu thế kỷ hai mươi, cụ Phan Bội Châu chu du sang Nhật mà không biết tiếng Nhật, cụ chỉ bút đàm. Hiện nay, bút đàm đôi khi vẫn còn sử dụng. Một giáo sư người Nhật kể lại chuyện gọi món ăn trong một chuyến du lịch Trung Hoa. Ông ấy đặt món bằng tiếng Anh, nên anh hầu bàn không hiểu, cho rằng vị khách này là người Trung Hoa, nhưng nói một thổ âm khác, anh ta liền chạy vào bếp kéo ra một người nói thổ âm khác anh ta, người ấy cũng không hiểu. Cuối cùng, thực khách vừa bút đàm vừa nói bằng tay với người phục vụ.

Cần phân biệt tiếng Hoa và chữ Hán. Trên đất nước Trung Hoa rộng lớn ngày nay, những người nói tiếng Hoa, phương ngữ Bắc Kinh và các vùng lân cận, và những người nói các phương ngữ khác ở các vùng khác như Quảng đông, Triều châu... mặc dù không hiểu nhau nhưng đều sử dụng chữ Hán để viết và đọc, giống như người Việt dùng chữ Hán. Như vậy trong chừng mực nào đó thì chữ Hán có vai trò gần như tiếng Anh,một lingua franca, trung tính về mặt văn hóa và chính trị, người Singapore, người Ấn độ... nói  tiếng Anh, mà không hề chịu ảnh hưởng của nước Anh, và người Nhật, người Hàn, dùng chữ Hán để viết bên cạnh chữ viết riêng của họ, mà không đoái hoài gì đến văn hóa chính trị của nước Trung Hoa hiện đại. Nhưng tiếng Hoa thì khác, tiếng Hoa qua các viện Khổng Tử trên thế giới đang bị giới trí thức ở các nước ấy e dè vì thế lực đằng sau, nhà nước Trung Hoa, không hề vô tư trong việc quảng bá tiếng Hoa. Một quốc gia dám ngang nhiên tự vẽ lại bản đồ quốc gia thì không việc gì không dám làm. Họ cẩn trọng như thế là đúng.

Tôi không biết chắc chắn vai trò tiếng Hoa ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai như thế nào, nhưng trong quá khứ chữ Hán và biến thể của chữ Hán, chữ Hán Nôm là phương tiện duy nhất lưu giữ kho tàng tri thức của cha ông, vì vậy cần phải hết sức cẩn trọng trong các vấn đề liên quan đến văn bản Hán và Hán Nôm. Tuy nhiên, để hiểu cha ông chúng ta cần học chữ Hán Nôm, chứ không phải tiếng Hoa. Một người giỏi tiếng Hoa chưa chắc đã giỏi chữ Hán, và tiếng Hoa chưa hề và không bao giờ là một lingua franca trên thế giới, căn cứ trên những đóng góp về khoa học, nghệ thuật, văn chương, giáo dục, triết học... của cộng đồng dùng tiếng Hoa ta có thể đoan quyết như vậy.  

Cách đây không lâu, tôi có dịp đi cùng với một đoàn giáo viên nước ngoài trong đó có một giáo viên người Úc dạy sử tham quan Đại nội, Huế. Là người địa phương, tôi ngẫu nhiên trở thành một hướng dẫn viên du lịch. Với kiến thức chừng mực của một hướng dẫn viên du lịch bất đắc dĩ tôi chỉ giới thiệu một cách khái quát, không đi sâu vào chi tiết, ví dụ chỉ nói là các bản văn khắc gỗ gắn trên tường bằng chữ Hán là các bài thơ của vua, gọi là Ngự chế trong tiếng Việt, còn nội dung thì tôi thú thật là không biết, vì tôi mù chữ Hán. May thay, bà giáo viên người Úc đã thay tôi dịch các văn bản chữ Hán sang tiếng Anh, và tôi học được thêm nhiều điều mà sách vở không thấy nói đến, chẳng hạn ý nghĩa đồ hình các ngôi sao trên các tác phẩm đúc đồng. Xấu hổ vì không đọc được chữ nghĩa của cha ông,sau buổi tham quan đó, tôi hạ quyết tâm học chữ Hán. Dĩ nhiên là tự học, vì không có thời gian đếncác lớp dạy Hán Nôm. Cho đến nay, vốn liếng chữ Hán của tôi chỉ đủ để đọc lỏm bỏmvài chữ, dự án xóa mù Hán Nôm của tôi xem như không thành công. Tuy nhiên, có một kinh nghiệm làm tôi bớt áy náy về sự thất bại của dự án. Trong một lần đi chợ trời ở Mỹ, tôi mua được một cái chai đựng trà bằng sứ, làm ở Hà Lan, điều thú vị là trên chai có khắc một bài thơ chữ Hán. Tôi nhờ một anh bạn, người Hoa, mới sang Mỹ làm nghiên cứu sinh tiến sĩ về ngôn ngữ học, đọc và giải thích. Tôi rất ngạc nhiên khi anh ta cho biết cómột số từ viết theo lối cổ nên anh ta không đọc được, và vì thế anh ta không chắc là hiểu hết ý nghĩa của bài thơ. Một người Hoa có trình độ học vấn như anh ta mà còn gặp khó khăn với chữ Hán, mới thấy quả như người xưa nói, bể học mênh mông.

Việc thay các hoành phi câu đối bằng chữ Hán sang chữ Quốc ngữ ở các công trình tôn giáo, văn hóa, lịch sử như đền chùa, lăng tẩm...  là một việc làm thiếu suy nghĩ, không nói đến chuyện tốn kém vô ích, nhìn từ góc độ văn hóa - lịch sử thì việc làm này hoàn toàn sai trái, có nguy cơ một lần nữa chặt đứt dòng mạch văn hoá, lịch sử của dân tộc. 

Xét về hình thức, đặt chữ Quốc ngữ vào cái khung hoành phi thì cũng gần như thiết kế một bộ trang phục có cà vạt, áo vét, khăn đóng, guốc mộc, và khố. Đơn giản là vì chúng không tương thích với nhau về nguồn cội, cách thức vận hành và chức năng: Chữ Quốc ngữ là một sản phẩm hoàn toàn của phương Tây, còn hoành phi, câu đối lại thuộc về văn hóa Á đông, ta có thể gặp chữ Quốc ngữ khắp nơi, nhà hàng, cửa hiệu, công sở, nhưng hoành phi câu đối thì chỉ có ở nhưng nơi có tính văn hóa, tôn giáo... tôn nghiêm, và nội dung cũng khác, một bên dùng để xiển dương cái đẹp cái hay, còn bên kia thì bất chấp nội dung. Hồn Trương Ba da hàng thịt, từ lai căng trong trường hợp này là chính xác. Còn nói đến ý nghĩa lịch sử - khảo cổ, thì việc thay thế ấy là hoàn toàn phá hoại, không có quốc gia văn minh nào ứng xử như vậy với di tích, với các công trình có tính văn hóa lịch sử.

Nhìn sang hai quốc gia có gốc gác văn hóa Á đông nhưng lại tiếp thu văn minh phương Tây một cách thành công là Hàn quốc và Nhật bản, ta thấy họ vẫn sử dụng chữ Hán, mặc dù đã có chữ viết riêng, thậm chí họ còn mời giáo viên người Trung Hoa sang dạy chữ Hán, xin nhớ là họ không cần viện Khổng tử dạy tiếng Hoa. Chữ Hán trong các công trình lịch sử của họ vẫn được trân quí, vì chữ Hán chỉ là phương tiện, cái được phương tiện đó diễn đạt, lưu giữ mới quan trọng. Xóa chữ Hán là xóa luôn kinh nghiệm sống, tâm hồn và trí tuệ của cha ông.

Có người lập luận là dùng chữ Quốc ngữ để cho người thời nay hiểu. Thật ra, điều này chỉ đúng chưa được một nửa. Ví dụ, ta thay bức hoành phi chữ Hán 眞如bằngmột bức hoành phi chữ quốc ngữ chân như, liệu người đọc có hiểu không, thậm chí khi được diễn dịch chưa chắc người đọc đã hiểu nếu không có kiến thức Phật học (theo từ điển Thiều Chửu thì chân như có nghĩa là nguyên lai, viên mãn thanh tịnh, không phải mượn bên ngoài vào). Đa số các văn bản chữ Hán, hay Hán Nôm còn lại ở Việt Nam thuộc về tôn giáo, triết học, văn hoá lịch sử mà ngôn ngữ uyên áo tịch mật của tôn giáo và triết học thì không phải ai đọc được cũng hiểu được; văn hóa lịch sử cũng vậy, có bao nhiêu là bất đồng về cách hiểu của một văn bản khi bối cảnh của văn bản đang còn chưa rõ ràng.

Nếu để giúp người đọc thời nay hiểu thì tốt nhất là nên có bản dịch trên một tấm bia nhỏ dựng bên cạnh bản gốc chữ Hán hay Hán Nôm, tương tự như cách thức các quốc gia khác thường làm để phục vụ du khách, ví dụ như bản tiếng Anh bên cạnh một bản văn khắc trên đá bằng tiếng Pháp trong một lâu đài ở Pháp. Việc làm này bảo đảm không bị thất thoát vì dịch thuật, vì nếu bản chữ Quốc ngữ dịch không đúng với tinh thần của bản chữ Hán thì còn có bàn gốc bên cạnh để đối chiếu. Các nhà nghiên cứu dịch thuật đã từng căn dặn, coi chừng, dịch là diệt, dịch là phản. Có ai muốn vì vô tình mà đã phản hay đã diệt di ngôn của cha ông hay không?

Lịch sử đã sang trang, chữ Hán ở nước ta đã mai một cùng với các ông đồ, nhìn lại hai nước trong khu vực văn hóa Hán, Hàn Quốc và Nhật Bản, ta nên tự hỏi liệu việc duy trì chữ Hán có đóng góp gì cho thành công vượt trội của họ hay không, khi chữ Hán là chiếc cầu nối giúp họ trở về với túi khôn của cha ông, chứ không phải là một gánh nặng các con chữ, học để thi như ngày xưa.

Nguồn: Trần Thuần (Đại học Postdam, Đức) - Tia Sáng

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.

  • Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?

  • Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.

  • Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.

  • Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…

  • Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”

  • Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.

  • Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.

  • L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.

  • Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.

  • Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...

  • Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.

  • Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.

  • Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt Nam được quốc tế công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thì trong tài nguyên, cũng có tài nguyên phi vật thể- tài nguyên con người.

  • Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.

  • Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.

  • Lòng hiếu thảo hay lòng từ bi ở cấp độ cá nhân và gia đình giúp chúng ta tăng cường sức đề kháng với cái xấu, cái ác bên ngoài. Một người con hiếu thảo sẽ khó bị cám dỗ bởi những tệ đoan xã hội.

  • Những tác phẩm văn học mang nặng tính giải trí dần chiếm lĩnh thị trường và thu hút ngày càng nhiều cây bút trẻ.