Hoang thai(1) - tiểu thuyết đương đại

10:20 11/11/2008
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.


Câu chuyện bắt đầu vào đêm đầu tiên của thiên niên kỉ mới. Trung tâm của tiểu thuyết là gia đình của đôi vợ chồng ở tuổi trung niên: Teresa và Jan, tại một thị trấn nghèo ở phía nam Ba Lan. Ewa, cô con gái đầu lòng 19 tuổi của họ ao ước được lên thành phố lớn, thoát khỏi phố nghèo tỉnh lẻ, mơ về một mối tình có thể đổi đời mình, như trong phim Mỹ. Đó cũng là động lực dẫn đến hành động ngây thơ, nhẹ dạ, gây hậu quả, lái cuộc đời của cô gái đi theo chiều hướng không lường trước. Sau phút ngộ nhận trong đêm giao thừa, Ewa đã leo lên chiếc Renault xanh của ba chàng trai không quen biết và đi theo họ. Hậu quả là cô gái bị cưỡng dâm trên xe, rồi cô mang thai mà không biết đích thực bố thai nhi là ai? Bất chấp ý mẹ, sẵn sàng đối mặt với thách thức mới, dám chịu trách nhiệm, Ewa quyết định không loại bỏ thai nhi, trái lại, coi đó là cái của riêng mình, để hàng ngày trò chuyện. Và thế là một cuộc đối thoại với thai, thực chất là cuộc độc thoại của Ewa bắt đầu. Ewa phát hiện ra một thế giới mới quanh mình và cùng Thai đi tìm hiểu thế giới này, tìm câu trả lời cho mình, cho Thai, thực chất là cho tuổi trẻ đương đại. Thai nhi như trang nhật kí sống động, thai nhi lại như lương tâm, mục đích sống của Ewa. Ba lần lặn lội đi tìm người cha của đứa bé cho thấy tính cách, cái tâm và cái tình của Ewa đối với Về phần mình, Thai đã làm thay đổi cuộc đời và quan niệm sống của Ewa. Chả thế mà cô thổ lộ: “Bây giờ ta hiểu, ta không thể sống thiếu mi được nữa. Nhờ có mi mà ta vỡ ra rằng, không thể sống cho qua ngày đoạn tháng, mà tất cả phải hướng tới một cái đích nào đó. Ta và mi, chúng ta hướng tới nhau... Ta cần mi, mi đã làm thay đổi đời ta, vậy có lẽ đó là tình yêu chứ còn gì?

Tiểu thuyết viết về sự hình thành ý thức của một cô gái, phản ánh tâm lý của giới trẻ muốn rời bỏ tỉnh lẻ lên các thành phố lớn. Nhiều yếu tố bất ngờ, gây cấn, đa chiều, đề cập những vấn đề gần gũi với đời sống của chúng ta, những vấn đề hầu như đều có thể có, trong mỗi gia đình, mỗi con người, mỗi làng quê, thị thành. Tiểu thuyết cũng chỉ ra những bất cập, những bức xúc của cuộc sống hiện đại và kinh tế thị trường vốn vẫn còn mới mẻ với người Ba Lan. Những người đọc là ông, là bà, là cha, là mẹ, là vợ, là chồng, là con trai, là con gái đều có thể suy ngẫm sau khi đọc cuốn tiểu thuyết này. Hoang thai đòi hỏi mỗi người chúng ta phải tự trả lời câu hỏi: Chỗ đứng của chúng ta trong thế giới này là ở đâu? Hoang thai cho chúng ta thấy: Hạnh phúc không xa lạ, hạnh phúc nằm ngay trong tầm tay chúng ta, vấn đề là phải nhận biết và nắm bắt nó. Thế giới không hề xấu và không thể xấu, bởi rốt cuộc, thế giới chính là chúng ta. Mỗi gia đình chúng ta chính là một thế giới thu nhỏ. Đặc biệt, Hoang thai còn là bức thông điệp dành riêng cho các bạn trẻ, nhất là các bạn nữ ở tuổi mười tám, đôi mươi, cần nhìn nhận thế giới một cách tích cực, phải thực tế, hai chân luôn luôn phải đạp đất mỗi khi kì vọng điều gì, không nên viển vông, ảo tưởng để tránh phải trả giá khôn lường. Mặt khác cũng phải biết đương đầu, đối mặt với những thử thách, cam go trong đời để vươn lên.

Tiểu thuyết Hoang thai được viết theo lối đồng hiện, quá khứ và hiện tại liên tục đan xen. Những lời thổ lộ có tính tổng quan sau mỗi chương với những áng văn đẹp, giàu nội tâm, đem lại cho người đọc những cảm xúc sâu lắng, để lại những dấu ấn khó quên. Cũng cần nhấn mạnh tính cập nhật của tác phẩm. Rất nhiều tình tiết của tiểu thuyết mang tính thời sự, là những vấn đề của cuộc sống đương đại, “nóng hổi như khoai tây vừa nướng”. Ewa và thai chính là đời. Thực tế văn học này chính là thế giới, nơi chúng ta đang sống. Những thủ pháp của tác giả như đặc tả, hồi tưởng, tái hiện, cổ tích hoá, thần thoại hoá, kinh dị hoá, sự mờ chồng của điện ảnh, những trang văn đẹp miêu tả cánh rừng, làng quê, hồ nước, đồng cỏ với những vị thần rừng huyền thoại, sự tinh tế, rất nhiều triết lý bác học của nhà văn... được dịch giả chuyển ngữ một cách uyển chuyển, sinh động. Kết thúc có phần bí ẩn, Hoang thai khiến người đọc vẫn còn bị ám ảnh sau khi gập cuốn sách lại.

Tiểu thuyết best-seller Hoang thai được tặng Giải thưởng Witryna 2003, giành danh hiệu Cuốn sách số một trong năm thuộc loại sự kiện xuất bản và được chọn đưa vào Tủ sách dành cho tuổi trẻ học đường. Đọc Hoang thai người đọc Việt lại được thưởng thức thêm một tài năng nữa của văn học Ba Lan, một nền văn học có tới bốn nhà văn và nhà thơ được giải Nobel(2).
            H.V

(nguồn: TCSH số 215 - 01 - 2007)

 




-------------------------
(1) Tác giả Dorota Terakowska, dịch giả Lê Bá Thự, Nhà xuất bản Phụ nữ, quý 4 năm 2006.
(2) Các nhà văn: Henryk Sienkiewicz (Nobel 1905), Wladyslaw Reymont (Nobel 1924); các nhà thơ: Czeslaw Milosz (Nobel 1980), Wislawa Szymborska (Nobel 1996) (ND).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀ

    Nguyên Quân song hành làm thơ và viết truyện ngắn. Ở thể loại nào, Nguyên Quân cũng tỏ ra sở trường và tâm huyết, nhưng thơ được mọi người yêu quý và ngưỡng mộ hơn.

  • LA MAI THI GIA

    Những ngày cuối năm, Sài Gòn bỗng dưng cũng khác, sáng sớm khi băng qua cầu Thủ Thiêm vốn đã quá quen, tôi khẽ rùng mình khi làn gió lành lạnh từ dưới sông Sài Gòn thổi lên, hơi sương nhè nhẹ tỏa ra bao bọc cả mặt sông mờ ảo, bất chợt thấy lòng ngẩn ngơ rồi lẩm bẩm một mình “Sài Gòn hôm nay khác quá!”

  • PHAN HỨA THỤY

    Thời gian gần đây ở Huế, việc tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung đã trở thành một vấn đề sôi động.

  • LÃ NGUYÊN

    Số phận văn chương của Nguyễn Minh Châu gắn liền với những bước đi cơ bản của nền văn học Việt Nam ở nhiều thời điểm lịch sử cụ thể.

  • Chúng ta đã được biết đến, và đây là phương diện chủ yếu, về một Nguyễn Bính thi sĩ, và không nhiều về một Nguyễn Bính nhà báo gắn với tờ tuần báo tư nhân Trăm hoa (1955-1957)1.

  • ĐẶNG TIẾN    

    Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).