Hoài niệm Ái Tử…

14:23 09/06/2008
Trước năm 1945, mỗi lần đi qua Ái Tử, tôi không khỏi lo sợ… Một sự lo sợ mơ hồ. Còn vì sao mà sợ thì cũng chẳng biết.

Dinh Trấn Ái Tử

Mùa hè mảnh đất Quảng Trị gió Nam Lào thổi ù ù làm cát bụi dọc đường thiên lý bay mịt mờ như ai ném cát lên không trung. Còn về mùa mưa, nhất là mưa mấy tháng đông kéo dài thì buồn lắm. Ngày ấy rừng còn dày lắm, rừng lan ra đến đường sắt và ban chiều hay đêm tối là thú rừng ra tận quốc lộ 1A.
Khi tôi lên 8 lên 10 thì Ái Tử trở thành sân bay của người Pháp. Nói cho đúng nghĩa thì Ái Tử chỉ là bãi bay cho loại máy bay bà già, đa cô ta với tốc độ dưới 300 cây số giờ, có việc gì quan trọng mới hạ cánh xuống Ái Tử.
Người già bảo chúng tôi ở Ái Tử có nhiều ma, vì nơi ấy ngày xưa là chiến trận, nhiều người bị chết mất thây. Những cuộn cát xoáy do gió cuốn lên mỗi lần mờ mịt là ma cụt đầu đi kiếm ăn. Có một lần vua Bảo Đại ra Quảng Trị và học trò tiểu học chúng tôi ăn mặc chỉnh tề đi đón vua.
Hôm sau thầy giáo dạy rằng Ái Tử Quảng Trị vốn là Tiền Cung của Triều Nguyễn. Hằng năm vua hoặc một đại thần thay mặt vua ra cúng tế một lần. Nghĩa là vua và Triều Nguyễn phải ra mảnh đất Ái Tử nơi Tiên chúa Nguyễn Hoàng khởi nghiệp cúng tế để tỏ lòng nhớ ơn tổ phụ đã đến xứ Đàng Trong để rồi mở cõi về phương Nam.
Nhìn nhận từ một góc độ lịch sử và gạt bỏ những gì chưa khách quan, xưa nay mảnh đất nào mà vua chúa dù dài dù ngắn định đô thì mảnh đất ấy là kinh thành (kinh đô của một quốc gia).
Khi mà lịch sử có sự trớ trêu đã phân định xứ Đằng Ngoài và xứ Đằng Trong. Bởi ngăn cách con sông Linh Giang thì Việt ta có hai đô thị Trung tâm chính trị cho hai xứ. Thăng Long thì đã đành một sự định vị cho toàn Đại Việt. Nhưng còn xứ Đàng Trong khi mà chúa Nguyễn, từ chúa Nguyễn Hoàng đến đời chúa thứ 9 là Nguyễn Phúc Thuần có lãnh địa riêng thì Trung tâm chính trị xứ Đàng Trong là nơi đâu…? Và ai đó đã khẳng định là Phú Xuân… là Huế chứ đâu nữa… Vâng. Nhưng lịch sử đâu dễ bỏ qua cái thời 9 chúa, thời quá độ mấy trăm năm để sau này có 13 vua, và vua đầu triều Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi năm 1802 mới định đô tại Huế.
Trong tác phẩm Xứ Đàng Trong, sử gia Phan Khoang viết rằng:
“Năm 1557, Đoan quận công Nguyễn Hoàng, trước cái chết mờ ám của anh mình là Nguyễn Uông, bèn nhờ chị gái là Nguyễn Thị Ngọc Bảo xin anh rể là Trịnh Kiểm được đi xa trấn thủ đất Thuận Hóa. Một mặt Nguyễn Hoàng sai người tâm phúc đến xin lĩnh ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một nhà lý số uyên bác và được Trạng bảo:
“Hoành Sơn Nhất đái Vạn đại dung thân”.
Nghĩa là một dãy núi Hoành sơn có thể dung thân để dựng nghiệp lâu dài.
Nguyễn Hoàng đưa gia quyến, thuộc tướng… theo đường biển dong buồm vào nam, vô cảng Cửa Việt, ngược dòng Thạch Hãn, lấy Ái Tử đóng lỵ sở, lập nên Dinh Cát.
Trong thời gian ở Ái Tử tức Dinh Cát, Nguyễn Hoàng đã nhiều lần vào Phú Xuân, thậm chí vào xa đến Quảng Nam… Một bằng chứng là Nguyễn Hoàng cho dựng lại chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê bên dòng sông Hương. Với con người mưu lược, có hoài bão mưu đại sự thu phục giang sơn, lẽ nào Nguyễn Hoàng không nhìn ra cái thế Phú Xuân để đóng dinh Trấn mà ở tận ngoài Ái Tử…
Chúng ta lùi lại thời gian năm 1557 đến năm 1560 và sau này đến khi chúa Nguyễn Hoàng qua đời là năm 1613 mới thấy vị trí chiến lược của Dinh Cát - Ái Tử.
Ái Tử nằm bờ Bắc sông Hãn Giang, tức là bên kia sông của thị xã Quảng Trị bây giờ. Ái Tử chỉ cách Huế Phú Xuân dưới 60 cây số, và đi đường thủy khá thuận tiện. Trong khi đó từ Ái Tử ra phòng tuyến sông Gianh chừng 140 cây số. Quân Trịnh từ bắc vào, một cuộc hành quân dài ngày vất vả, qua được đèo Ngang là bị chận đánh. Và có vượt được Linh Giang thì đã có các phòng tuyến khác. Sau này có Lũy Thầy rồi Lũy Trường Dực. Nguyễn Hoàng, vị tổng chỉ huy của xứ Đàng Trong có đủ thời giờ từ Ái Tử ra tiếp ứng. Ở thời buổi giao tranh bằng sức người và gươm giáo, đi thuyền đi ngựa để đưa tin, vận tải lương thực, như hoàn cảnh Đại Việt vào lúc ấy. Nguyễn Hoàng đóng dinh thự làm đại bản doanh, cũng là trung tâm của xứ Đàng Trong đâu hơn Ái Tử? Ngày nay chúng ta còn thấy con sông đào từ sông Thạch Hãn vào Ái Tử, ở mạn phía đông. Nhánh sông đào này là để vận chuyển lương thảo.
Phía nam Ái Tử là đạo quân dự bị tức Hậu Kiên, còn quanh Ái Tử có Tiền Kiên, Trung Kiên, Tả Kiên, Hữu Kiên. Đó là Ngũ Kiên tức 5 đạo quân lớn do chúa Nguyễn Hoàng lập nên và trực tiếp chỉ huy. Bây giờ những Hậu Kiên, Trung Kiên… đã thành làng thuộc huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Dân các làng này khẳng định; họ là con cháu của binh lính thời các chúa Nguyễn, về già ở thành làng và lấy tên nguyên bổn Ngũ Kiên mà có tên làng.
Ở làng An Tiêm bên dòng sông Vĩnh Định có cánh đồng được gọi là cánh đồng Phủ. Phủ là Phủ chúa. Lại có Mô Súng, Kên Xưởng. Tức xưởng đúc kẽm, chế tạo thần công đặt lên mô súng bắn thử.
Đó là phía bờ nam Ái Tử, còn bên bờ bắc, lỵ sở kho tàng còn kéo dài xuống các làng Trà Bát, Trà Liên.
Nguyễn Hoàng sinh vào ngày 26-9-1525, qua đời ngày 21-5-1613. (Lên ngôi chúa vào năm 1558 đến khi qua đời 1613). Ông còn được gọi là chúa Tiên, Tiên Vương, Tiên Chúa. Lẽ tất nhiên là người dân phong tặng cho ông.
Như vậy là Nguyễn Hoàng có “hộ khẩu” tại Ái Tử đâu phải vài ba năm mà đến nửa thiên niên kỷ…
Con trai ông là Nguyễn Phúc Nguyên tức chúa Sãi… Sãi Vương kế vị vẫn đóng dinh tại Ái Tử như cha mình. Ông còn cho lập chợ nơi ngã ba sông Thạch Hãn - Vĩnh Định và người dân đặt tên chợ là chợ Sãi để ghi ơn.
Nguyễn Hoàng có công với Quảng Trị như vậy, và với đất nước, ông là vị Chúa có công mở cõi.
Trong thời gian ở ngôi tại Ái Tử, ông đã sai thuộc tướng vào Trấn Biên (Phú Yên ngày nay). Hai thuộc tướng ấy là Lương Công Chánh và Nguyễn Thành Phương đã giúp ông dựng đá bia ở gần sông Đà Rằng thuộc cụm núi mà đỉnh cao là ngọn Chóp Chài. Ông dặn thuộc tướng là cho lập làng lập ấp ngay, và nhìn xuống Đèo Cả vào tới Đại Lãnh để đến Nha Trang.
Khát vọng của Nguyễn Hoàng không phải là kẻ đi lánh nạn mà có chí lớn mở cõi về phương . Ta hãy nghe ông trối trăn với chúa con nối ngôi là chúa Sãi:
“Nếu thấy đánh được mà thống nhất giang sơn thì làm… không thì hòa hoãn chờ thời cơ. Nhưng phải tiến xa về phương . Nơi nào thu phục được thì di dân vào, lập làng lập xã đặt chức sắc cai trị mà giữ đất…”
Hai vị tướng Lương Công Chánh và Nguyễn Thành Phương đã hoàn thành sứ mệnh được giao và đã trở thành người có công với Tuy Hòa, Phú Yên được thờ tự như bậc khởi nghiệp của vùng đất này.
Thời chúa Nguyễn Hoàng ở Ái Tử và cả xứ Đàng Trong, dân tình hết sức thái bình. Chợ không hai giá, đêm dân ngủ yên giấc, nhà không đóng cửa, nạn trộm cắp chưa bao giờ xảy ra. Sản vật dồi dào. Trước hết là chúa khoan hòa, sử dụng người tài, thực bụng chiêu hiền đãi sĩ… Dân mến công đức gọi ông là Chúa Tiên.
Xưa nay dân tộc Việt ta rất tôn thờ các vị anh hùng dân tộc. Đó là tuấn kiệt anh hùng dựng bờ mở cõi, chinh Bắc chiến mà giữ gìn độc lập cho một Việt tươi đẹp như hôm nay.
Anh hùng giữ nước thì có nhiều, nhưng anh hùng dựng nước có mấy ai...
Bác Hồ đã căn dặn với một đơn vị bộ đội khi Người đến thăm đền vua Hùng:
“Các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta hãy ra sức giữ lấy nước”.
Từ vua Hùng trải mấy triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê. Bản đồ nước ta đến đâu thì chúng ta biết rồi. Khi Nguyễn Hoàng vào Ái Tử và tiếp nối 8 chúa đời sau thì diện mạo nước ta đã khác nhiều lắm.
Vậy thì chúa Nguyễn Hoàng có được gọi là vị anh hùng dân tộc mở cõi không…?
Xin để dành câu hỏi này cho các nhà làm sử.
Chúng ta biết rằng tỉnh Quảng Trị được vua Minh Mạng cho thành lập sau khi vua Gia Long băng hà năm 1820. Nghĩa là trước đó Quảng Trị gắn liền với Phú Xuân, với Huế. Bởi chẳng xa xôi gì, nên phong tục tập quán rồi giọng nói chả khác là bao. Vào Nam Bộ mấy bà mấy chị họ gọi chung chung là ngoài Huế, khi họ tiếp chúng tôi là dân Quảng Trị.
Và cũng không ít người đồng nghĩa ranh giới địa lý với văn hóa nên khó thấy sự gắn liền lịch sử của Ái Tử với Phú Xuân.
Vua Nguyễn cho xây hành cung ở trong thành Quảng Trị là để nhớ đến tổ tiên của mình. Thậm chí còn ra đó cúng tế hàng năm: Cúng Tiền Cúng trước khi cúng tế ở Huế.
Rồi do hoàn cảnh chiến tranh và lâu ngày không còn tiếp nối. Nhưng mạch lịch sử thì vẫn còn đó. Một Ái Tử thuở 9 chúa mà chúa đầu tiên là Nguyễn Hoàng đóng dinh trấn để cho Ái Tử tiêu điều chẳng biết vì đâu?
Tân Sở ở Cam Lộ, vua Hàm Nghi trên đường kháng chiến ở lại chẳng bao ngày. Vậy mà cũng thành nơi di tích. Rồi ở thị trấn Cam Lộ… cũng thành nơi gìn giữ khí phách của thời đánh Mỹ hào hùng.
Vậy Ái Tử một bề dày không thua bất cứ nơi đóng dinh thự của vua chúa tồn tại đến 9 chúa… vậy mà chỉ còn lại CÁT.
Tôi nhớ mà đau câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ, một nhà thơ ở Đồng Nai:
“Ai nhớ Người chăng ôi Nguyễn Hoàng
Mà nay con cháu mấy đời hoang”
Nguyễn Hoàng không được đặt tên cho dù một con đường đất ở thị xã Đông Hà hay Quảng Trị. Hai thị xã mà ông đã từng sống đến cuộc đời mà đi mở cõi.
     Quảng Trị xuân 2008

NHẤT LÂM
(nguồn: TCSH số 232 - 06 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…