Hoài niệm Ái Tử…

14:23 09/06/2008
Trước năm 1945, mỗi lần đi qua Ái Tử, tôi không khỏi lo sợ… Một sự lo sợ mơ hồ. Còn vì sao mà sợ thì cũng chẳng biết.

Dinh Trấn Ái Tử

Mùa hè mảnh đất Quảng Trị gió Nam Lào thổi ù ù làm cát bụi dọc đường thiên lý bay mịt mờ như ai ném cát lên không trung. Còn về mùa mưa, nhất là mưa mấy tháng đông kéo dài thì buồn lắm. Ngày ấy rừng còn dày lắm, rừng lan ra đến đường sắt và ban chiều hay đêm tối là thú rừng ra tận quốc lộ 1A.
Khi tôi lên 8 lên 10 thì Ái Tử trở thành sân bay của người Pháp. Nói cho đúng nghĩa thì Ái Tử chỉ là bãi bay cho loại máy bay bà già, đa cô ta với tốc độ dưới 300 cây số giờ, có việc gì quan trọng mới hạ cánh xuống Ái Tử.
Người già bảo chúng tôi ở Ái Tử có nhiều ma, vì nơi ấy ngày xưa là chiến trận, nhiều người bị chết mất thây. Những cuộn cát xoáy do gió cuốn lên mỗi lần mờ mịt là ma cụt đầu đi kiếm ăn. Có một lần vua Bảo Đại ra Quảng Trị và học trò tiểu học chúng tôi ăn mặc chỉnh tề đi đón vua.
Hôm sau thầy giáo dạy rằng Ái Tử Quảng Trị vốn là Tiền Cung của Triều Nguyễn. Hằng năm vua hoặc một đại thần thay mặt vua ra cúng tế một lần. Nghĩa là vua và Triều Nguyễn phải ra mảnh đất Ái Tử nơi Tiên chúa Nguyễn Hoàng khởi nghiệp cúng tế để tỏ lòng nhớ ơn tổ phụ đã đến xứ Đàng Trong để rồi mở cõi về phương Nam.
Nhìn nhận từ một góc độ lịch sử và gạt bỏ những gì chưa khách quan, xưa nay mảnh đất nào mà vua chúa dù dài dù ngắn định đô thì mảnh đất ấy là kinh thành (kinh đô của một quốc gia).
Khi mà lịch sử có sự trớ trêu đã phân định xứ Đằng Ngoài và xứ Đằng Trong. Bởi ngăn cách con sông Linh Giang thì Việt ta có hai đô thị Trung tâm chính trị cho hai xứ. Thăng Long thì đã đành một sự định vị cho toàn Đại Việt. Nhưng còn xứ Đàng Trong khi mà chúa Nguyễn, từ chúa Nguyễn Hoàng đến đời chúa thứ 9 là Nguyễn Phúc Thuần có lãnh địa riêng thì Trung tâm chính trị xứ Đàng Trong là nơi đâu…? Và ai đó đã khẳng định là Phú Xuân… là Huế chứ đâu nữa… Vâng. Nhưng lịch sử đâu dễ bỏ qua cái thời 9 chúa, thời quá độ mấy trăm năm để sau này có 13 vua, và vua đầu triều Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi năm 1802 mới định đô tại Huế.
Trong tác phẩm Xứ Đàng Trong, sử gia Phan Khoang viết rằng:
“Năm 1557, Đoan quận công Nguyễn Hoàng, trước cái chết mờ ám của anh mình là Nguyễn Uông, bèn nhờ chị gái là Nguyễn Thị Ngọc Bảo xin anh rể là Trịnh Kiểm được đi xa trấn thủ đất Thuận Hóa. Một mặt Nguyễn Hoàng sai người tâm phúc đến xin lĩnh ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Một nhà lý số uyên bác và được Trạng bảo:
“Hoành Sơn Nhất đái Vạn đại dung thân”.
Nghĩa là một dãy núi Hoành sơn có thể dung thân để dựng nghiệp lâu dài.
Nguyễn Hoàng đưa gia quyến, thuộc tướng… theo đường biển dong buồm vào nam, vô cảng Cửa Việt, ngược dòng Thạch Hãn, lấy Ái Tử đóng lỵ sở, lập nên Dinh Cát.
Trong thời gian ở Ái Tử tức Dinh Cát, Nguyễn Hoàng đã nhiều lần vào Phú Xuân, thậm chí vào xa đến Quảng Nam… Một bằng chứng là Nguyễn Hoàng cho dựng lại chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê bên dòng sông Hương. Với con người mưu lược, có hoài bão mưu đại sự thu phục giang sơn, lẽ nào Nguyễn Hoàng không nhìn ra cái thế Phú Xuân để đóng dinh Trấn mà ở tận ngoài Ái Tử…
Chúng ta lùi lại thời gian năm 1557 đến năm 1560 và sau này đến khi chúa Nguyễn Hoàng qua đời là năm 1613 mới thấy vị trí chiến lược của Dinh Cát - Ái Tử.
Ái Tử nằm bờ Bắc sông Hãn Giang, tức là bên kia sông của thị xã Quảng Trị bây giờ. Ái Tử chỉ cách Huế Phú Xuân dưới 60 cây số, và đi đường thủy khá thuận tiện. Trong khi đó từ Ái Tử ra phòng tuyến sông Gianh chừng 140 cây số. Quân Trịnh từ bắc vào, một cuộc hành quân dài ngày vất vả, qua được đèo Ngang là bị chận đánh. Và có vượt được Linh Giang thì đã có các phòng tuyến khác. Sau này có Lũy Thầy rồi Lũy Trường Dực. Nguyễn Hoàng, vị tổng chỉ huy của xứ Đàng Trong có đủ thời giờ từ Ái Tử ra tiếp ứng. Ở thời buổi giao tranh bằng sức người và gươm giáo, đi thuyền đi ngựa để đưa tin, vận tải lương thực, như hoàn cảnh Đại Việt vào lúc ấy. Nguyễn Hoàng đóng dinh thự làm đại bản doanh, cũng là trung tâm của xứ Đàng Trong đâu hơn Ái Tử? Ngày nay chúng ta còn thấy con sông đào từ sông Thạch Hãn vào Ái Tử, ở mạn phía đông. Nhánh sông đào này là để vận chuyển lương thảo.
Phía nam Ái Tử là đạo quân dự bị tức Hậu Kiên, còn quanh Ái Tử có Tiền Kiên, Trung Kiên, Tả Kiên, Hữu Kiên. Đó là Ngũ Kiên tức 5 đạo quân lớn do chúa Nguyễn Hoàng lập nên và trực tiếp chỉ huy. Bây giờ những Hậu Kiên, Trung Kiên… đã thành làng thuộc huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Dân các làng này khẳng định; họ là con cháu của binh lính thời các chúa Nguyễn, về già ở thành làng và lấy tên nguyên bổn Ngũ Kiên mà có tên làng.
Ở làng An Tiêm bên dòng sông Vĩnh Định có cánh đồng được gọi là cánh đồng Phủ. Phủ là Phủ chúa. Lại có Mô Súng, Kên Xưởng. Tức xưởng đúc kẽm, chế tạo thần công đặt lên mô súng bắn thử.
Đó là phía bờ nam Ái Tử, còn bên bờ bắc, lỵ sở kho tàng còn kéo dài xuống các làng Trà Bát, Trà Liên.
Nguyễn Hoàng sinh vào ngày 26-9-1525, qua đời ngày 21-5-1613. (Lên ngôi chúa vào năm 1558 đến khi qua đời 1613). Ông còn được gọi là chúa Tiên, Tiên Vương, Tiên Chúa. Lẽ tất nhiên là người dân phong tặng cho ông.
Như vậy là Nguyễn Hoàng có “hộ khẩu” tại Ái Tử đâu phải vài ba năm mà đến nửa thiên niên kỷ…
Con trai ông là Nguyễn Phúc Nguyên tức chúa Sãi… Sãi Vương kế vị vẫn đóng dinh tại Ái Tử như cha mình. Ông còn cho lập chợ nơi ngã ba sông Thạch Hãn - Vĩnh Định và người dân đặt tên chợ là chợ Sãi để ghi ơn.
Nguyễn Hoàng có công với Quảng Trị như vậy, và với đất nước, ông là vị Chúa có công mở cõi.
Trong thời gian ở ngôi tại Ái Tử, ông đã sai thuộc tướng vào Trấn Biên (Phú Yên ngày nay). Hai thuộc tướng ấy là Lương Công Chánh và Nguyễn Thành Phương đã giúp ông dựng đá bia ở gần sông Đà Rằng thuộc cụm núi mà đỉnh cao là ngọn Chóp Chài. Ông dặn thuộc tướng là cho lập làng lập ấp ngay, và nhìn xuống Đèo Cả vào tới Đại Lãnh để đến Nha Trang.
Khát vọng của Nguyễn Hoàng không phải là kẻ đi lánh nạn mà có chí lớn mở cõi về phương . Ta hãy nghe ông trối trăn với chúa con nối ngôi là chúa Sãi:
“Nếu thấy đánh được mà thống nhất giang sơn thì làm… không thì hòa hoãn chờ thời cơ. Nhưng phải tiến xa về phương . Nơi nào thu phục được thì di dân vào, lập làng lập xã đặt chức sắc cai trị mà giữ đất…”
Hai vị tướng Lương Công Chánh và Nguyễn Thành Phương đã hoàn thành sứ mệnh được giao và đã trở thành người có công với Tuy Hòa, Phú Yên được thờ tự như bậc khởi nghiệp của vùng đất này.
Thời chúa Nguyễn Hoàng ở Ái Tử và cả xứ Đàng Trong, dân tình hết sức thái bình. Chợ không hai giá, đêm dân ngủ yên giấc, nhà không đóng cửa, nạn trộm cắp chưa bao giờ xảy ra. Sản vật dồi dào. Trước hết là chúa khoan hòa, sử dụng người tài, thực bụng chiêu hiền đãi sĩ… Dân mến công đức gọi ông là Chúa Tiên.
Xưa nay dân tộc Việt ta rất tôn thờ các vị anh hùng dân tộc. Đó là tuấn kiệt anh hùng dựng bờ mở cõi, chinh Bắc chiến mà giữ gìn độc lập cho một Việt tươi đẹp như hôm nay.
Anh hùng giữ nước thì có nhiều, nhưng anh hùng dựng nước có mấy ai...
Bác Hồ đã căn dặn với một đơn vị bộ đội khi Người đến thăm đền vua Hùng:
“Các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta hãy ra sức giữ lấy nước”.
Từ vua Hùng trải mấy triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê. Bản đồ nước ta đến đâu thì chúng ta biết rồi. Khi Nguyễn Hoàng vào Ái Tử và tiếp nối 8 chúa đời sau thì diện mạo nước ta đã khác nhiều lắm.
Vậy thì chúa Nguyễn Hoàng có được gọi là vị anh hùng dân tộc mở cõi không…?
Xin để dành câu hỏi này cho các nhà làm sử.
Chúng ta biết rằng tỉnh Quảng Trị được vua Minh Mạng cho thành lập sau khi vua Gia Long băng hà năm 1820. Nghĩa là trước đó Quảng Trị gắn liền với Phú Xuân, với Huế. Bởi chẳng xa xôi gì, nên phong tục tập quán rồi giọng nói chả khác là bao. Vào Nam Bộ mấy bà mấy chị họ gọi chung chung là ngoài Huế, khi họ tiếp chúng tôi là dân Quảng Trị.
Và cũng không ít người đồng nghĩa ranh giới địa lý với văn hóa nên khó thấy sự gắn liền lịch sử của Ái Tử với Phú Xuân.
Vua Nguyễn cho xây hành cung ở trong thành Quảng Trị là để nhớ đến tổ tiên của mình. Thậm chí còn ra đó cúng tế hàng năm: Cúng Tiền Cúng trước khi cúng tế ở Huế.
Rồi do hoàn cảnh chiến tranh và lâu ngày không còn tiếp nối. Nhưng mạch lịch sử thì vẫn còn đó. Một Ái Tử thuở 9 chúa mà chúa đầu tiên là Nguyễn Hoàng đóng dinh trấn để cho Ái Tử tiêu điều chẳng biết vì đâu?
Tân Sở ở Cam Lộ, vua Hàm Nghi trên đường kháng chiến ở lại chẳng bao ngày. Vậy mà cũng thành nơi di tích. Rồi ở thị trấn Cam Lộ… cũng thành nơi gìn giữ khí phách của thời đánh Mỹ hào hùng.
Vậy Ái Tử một bề dày không thua bất cứ nơi đóng dinh thự của vua chúa tồn tại đến 9 chúa… vậy mà chỉ còn lại CÁT.
Tôi nhớ mà đau câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ, một nhà thơ ở Đồng Nai:
“Ai nhớ Người chăng ôi Nguyễn Hoàng
Mà nay con cháu mấy đời hoang”
Nguyễn Hoàng không được đặt tên cho dù một con đường đất ở thị xã Đông Hà hay Quảng Trị. Hai thị xã mà ông đã từng sống đến cuộc đời mà đi mở cõi.
     Quảng Trị xuân 2008

NHẤT LÂM
(nguồn: TCSH số 232 - 06 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.

  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.