Hoa bên trời

16:19 11/02/2009
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.

Hoa păng-xê

Trước hết tôi phải nói về bông hoa phù dung, mà tôi đã gặp bên một đường đồi ở Đà Lạt trước ngày tôi bỏ phố lên rừng. Thú thật là từ trước đến nay, tôi không ngờ có một loài hoa oái oăm đến thế: màu trắng buổi sáng, thì tưởng như không có vật gì ở trên đời trắng hơn, màu hồng vào buổi trưa lại quyến rũ như màu má giai nhân; và màu tím vào buổi chiều luôn luôn khiến ta đau xót, như một niềm thương tiếc khôn nguôi. Cứ ba màu như thế nối tiếp nhau, và trải qua chỉ trong một ngày. Hoa phù dung biểu lộ với tôi tấm lòng ham thích cuộc sống của nó, mặt khác, hình như nó đã phải sống hụt một đời hoa. Thậm chí, có khi ngồi buồn, tôi nghĩ rằng trong thế giới này nếu có một vật gì có vận tốc nhanh nhất thì vật ấy chính là cuộc đời của hoa phù dung. Thấy đóa hoa trắng muốt từ vườn nhà ai đổ nghiêng ra bên đường quá đẹp, tôi muốn hái về làm quà tặng cho cô bạn gái, nhưng chợt nhớ ra tôi còn bận chút việc ở phố, bèn tự nhủ đợi lúc đi phố về hẵn hái. Trưa hôm ấy, tôi gặp việc bất ngờ không trở về lối vườn cũ như đã hẹn. Mãi đến lúc chiều xế, tôi mới trở lại, với quyết tâm hái cho được bông hoa trắng gặp bên đường hồi sáng về tặng cô bạn gái nhân ngày sinh nhật. Nào ngờ tìm mãi, chỉ thấy một bông hoa tím bầm héo rũ trên cành, tôi cứ nghĩ là mình đã gặp một bông hoa khác. Sau này tôi mới hay rằng chính nó là bông hoa trắng hồi sáng, và nó tên là hoa phù dung. Từ đó mỗi lần nghe nhắc đến hoa phù dung, tôi lại thấy một cảm giác rờn rợn như đối với một số phận đầy bi thảm. Như thể rằng nó không phải là một loài thực vật, mà là một thiếu nữ.

Một thứ hoa khác mà tôi không thể không nhắc đến mỗi lần nói về hoa, là hoa ngũ sắc. Nó như một thứ quà tặng mà thiên nhiên dành cho tuổi thơ của tôi, hay nói cách khác, chính là nhờ hoa ngũ sắc mà tuổi thơ đầy ràng buộc trong sự giáo dục nghiêm khắc của cha tôi, tôi vẫn cảm thấy tuổi nhỏ của tôi có đôi phần hoang dại. Hoa ngũ sắc mọc hoang bên đường đi, mỗi đóa hoa chỉ lớn bằng đồng xu, với những cánh hoa nhỏ xíu có năm màu đỏ, gạch, vàng, trắng, xanh; trái kết thành chùm khi chín màu đen sẫm, có vị ngọt. Tôi có cái thú mỗi khi đi học về, thường tha thẩn bên những trái chín hoặc hút chất mật ngọt cuối những cánh hoa. Trước khi lên rừng, hình ảnh thân yêu của thành phố hiện ra đầy tâm trí tôi. Lúc tôi thong thả bước qua cầu Trường Tiền là hình ảnh của những bông hoa ngũ sắc, mọc hồn nhiên trên nền đổ nát của những cung điện hoang phế. Chúng sặc sỡ bên đường như một bầy trẻ con đang ríu rít chào tôi. Trong một nỗi lưu luyến như tuồng không phải đối với những bông hoa, tôi thầm thì với những bông ngũ sắc: "Tạm biệt nhé! Tạm biệt tuổi thơ của ta!".
Hai loài hoa nói trên tuy không thuộc về thế giới khói lửa của tôi nhưng chúng đã giữ một vai trò quan trọng trong tâm hồn tôi, và thường xuyên có mặt giữa những tổ hợp hoa đã cấu trúc nên thế giới tình cảm của tôi trong chiến tranh; vả lại tôi cũng e rằng tôi không còn dịp nào khác để nói về chúng.

Thời kỳ ở rừng, sáu tháng đầu, tôi vẫn được hưởng tiêu chuẩn "khách mời" của thành phố Huế. Có một đêm tôi theo cơ quan tản ra một địa điểm xa khỏi nơi đóng trụ sở để đề phòng địch mở cuộc càn quét. Địa điểm ấy là một cánh rừng thưa thuộc vùng giáp ranh, mặt đất phẳng khá rộng và mọc đầy một giống hoa địa lan lạ, trước nay tôi chưa hề thấy. Hoa gồm có một cọng dài, trên đầu nở hai tầng hoa màu khác nhau: tầng trên các cánh hoa có màu trắng, tầng dưới màu vàng cháy. Em trai tôi đi hái chừng 5 cọng hoa cắm vào một ống giang có đuôi được vạt nhọn để cắm xuống đất, mang đến đặt cạnh võng tôi. Đó là bình hoa đầu tiên em tôi tặng tôi ở Trường sơn, khi tôi đi xa chiếc bàn viết "mộng dưới hoa" của tôi ở thành phố. Sáng hôm sau, tôi thức dậy trong tiếng chim rừng và tiếng suối reo. Tôi xiết bao ngạc nhiên khi thấy cành địa lan gần tôi đã thay đổi màu từ bao giờ. Màu vàng cháy phía dưới đã dâng cao lên ngọn, và tầng hoa trắng phía trên bị thu hẹp lại. Nhìn thật kỹ, tôi chợt phát hiện rằng cành lan mà lúc đầu tôi tưởng rằng có hai màu khác nhau, hoá ra chỉ có một màu trắng, và khi càng về già, những cánh hoa trắng đều ngả sang màu vàng cháy. Tôi cảm ơn em trai tôi đã mang tặng tôi chút dư vang thân thiết của thành phố trong những ngày tôi đi "đánh bạn với lau lách" ở rừng Trường Sơn. Tôi còn phải sống nhiều năm với tình bạn ấy và sau này tôi nghiệm ra rằng đấy là những năm tháng mang tất cả ý nghĩa của cuộc đời tôi. Những tháng năm ấy giống như ý niệm hạt nhân của nguyên tử, mang toàn bộ trọng lượng của đời tôi và nếu như loại trừ những tháng năm ấy ra khỏi đời mình thì mọi biến cố còn lại của tôi sau này sẽ trở nên hụt hẫng mất trọng lượng như những vật thể ở ngoài không gian.

Tôi xin nói tiếp về một loài hoa khác.
Một hôm, tôi đi lạc vào một cánh rừng rộng đầy những cây mây song. Tôi nằm áp mặt xuống đất, dòm nghiêng dưới chân những bụi mây, cố tìm dấu vết của những con heo rừng thường ẩn nấp trong đó. Ở một bụi cây, tôi tình cờ phát hiện một loại cây chi mà lá phiến tròn cuống dài trông như bụi rau má; biết đâu nếu quả là rau má thì tốt quá; những năm này chúng tôi đang đói. Tôi nhổ một bụi cây nhỏ và lùi ra khỏi gốc mây, mân mê nhìn kỹ. Dưới chân những cuống lá, có một đám hoa vàng chói; hình như những chiếc lá cố tình vươn lên cao để giấu kín hoa. A, đúng là hoa păng-xê, nhưng ở đây hoa không có màu tím than mà trở nên vàng chói; tuy nhiên trông nó vẫn tinh khiết và cao sang lạ lùng. Hoa păng-xê có tên trong danh sách những loài hoa quý mà những người yêu nhau thường tặng cho nhau để thay lời nhắn nhủ: "Đừng để ai biết chúng mình yêu nhau" . Ở giai đoạn bắt đầu, người ta thường có thói quen giấu kín người khác về tình yêu của mình; có lẽ vì vậy mà người ta gọi tâm hồn con người là một "khu vườn bí mật". Nhiều cô gái ở thành phố vẫn thích ghim một biểu tượng hoa păng-xê trước ngực áo; để hé mở một chút về "khu vườn bí mật" của mình, như vậy, trông lại càng quyến rũ.

Tôi nhớ hoạ sĩ Đinh Cường có vẽ tặng tôi bức sơn dầu "Bản giao hưởng bỏ dở" trong đó vẽ một lọ hoa păng-xê đặt trên một chiếc dương cầm với chiếc ghế ngồi bỏ trống. Có một dạo tôi rất mê hoa păng-xê. Cô em gái của tôi bèn nhổ trộm cây hoa ấy trong vườn hoa của bà hiệu trưởng định mang về tặng tôi. Chẳng may sự việc bị phát giác và cô bé tội nghiệp suýt bị đưa ra toà án về tội ăn cắp. Hoa păng-xê đã để lại một kỷ niệm cay đắng như thế trong tâm hồn tôi, nên tôi chợt vui mừng vô kể khi gặp lại nó giữa chốn hoang vu này. Dù nó không phải màu tím nhưng tôi cứ tin rằng nó là hoa păng -
xê thứ thiệt; biết đâu hoa păng-xê cũng có một màu khác, giống như kỷ niệm có nhiều màu. Tôi nghĩ rằng nhiều thứ hoa thường thấy đều là hoa trang trí nội thất, trong khi păng-xê lại là hoa trang trí tâm hồn. Tôi yêu hoa păng-xê vì nó là dấu hiệu của nội tâm thầm kín, nó mang trả cho tôi những ngày rong chơi tha hồ khi còn ở thành phố. Tôi tình cờ phát hiện ra nó ở một cánh rừng hoang dại mà tôi chỉ đi qua có một lần, đưa nó ra ánh sáng từ một mặt đất ẩm ướt, dưới chân tối mờ và gai góc của một bụi mây song. Tôi ao ước một ngày chấm dứt chiến cuộc để tôi đi lang thang trên những nẻo đường rụng đầy lá vàng tươi, hoặc ngẩn ngơ đứng nhìn giòng sông mượt mà trôi đi với những con đò áo trắng, và tôi sẽ hoàn toàn hạnh phúc trong thành phố của tôi, với một biểu tượng của hoa păng-xê trên ngực. Mặt khác, tôi biết rằng tôi còn phải đánh bạn với lau lách trong nhiều năm; vật mà tôi luôn có bên mình, chính là khẩu súng, không phải là hoa, và còn lâu mới đến hoa păng-xê. Và đến bao giờ thì những bạn bè tri kỷ của tôi hiện ở phố biết được rằng chính tôi đã khám phá ra một loài hoa păng-xê màu vàng từ trong lòng một cánh rừng Trường Sơn? Ngày đó, thì chắc tôi đã già. Lau lách trên núi cũng già. Nhưng hoa păng-xê thì mãi mãi vẫn giữ riêng một điều gì thầm kín.

Chiến tranh càng kéo dài, những kháng chiến quân thành phố càng bị đẩy dần lên cao trên Trường Sơn; ở đó là rừng già, và hoa dại càng trở nên hiếm hoi. Thỉnh thoảng, tôi lại gặp một cây tùng độc lập, với những con đại bàng viễn du ghé lại ăn trái tùng, hoặc những đêm ngủ rừng, thức giấc tôi nghe cả tiếng đười ươi hú...
Tôi rất ít gặp hoa nhưng âm thầm trong lòng, tôi vẫn nhớ chúng. Cơ quan di chuyển nhiều nơi, tôi vẫn lích kích mang theo ba lô một mảnh gỗ mục có bám mấy sợi rễ phong lan, đem về treo lủng lẳng ở chỗ làm việc. Cái giống phong lan thật lạ đời, sống không cần đất và nước, thường thì trông xấu xí, cục mịch và im lìm đến độ tưởng rằng nó đã chết. Nhưng cứ đến mùa thì nó lại bất ngờ ra hoa, hoa đẹp và kỳ lạ không thể tưởng. Cành phong lan của tôi cũng thế. Một mùa xuân, nó đã nở ra cho tôi hai giò hoa đầy những hoa vàng với những chấm tím. Chính nhờ có nó mà tôi biết rằng mùa xuân đã về, vì theo thói quen, tôi làm việc không hề nhìn đến quyển lịch. Nó khiêm tốn và kiên cố như một chân lý, cứ đúng lúc lại xuất hiện.

Những lần công tác, tôi thường men theo giòng sông Hương chảy trên rừng. Lần ấy có Khoa cùng đi với tôi. Chúng tôi đi dạo dọc theo bờ sông Hương đúc bằng một dải đá liền xa đến mút mắt, lô nhô những hòn đá nhoi cao hơn như hình những nhà sư ngồi thiền định bên sông, cạnh những ục nước mà khi thủy triều rút xuống, còn để lại ít nước và những con cá sao chạy loăng quăng từ ục này sang ục khác. Trình thường đi công tác ghé qua đây, dùng súng AK bắn thẳng vào những ục đá lớn để vớt những con cá sao nổi lềnh bềnh đem về nấu canh với lá giang. Ở những ục đá nhỏ hơn mà nước sông đã kịp khô đi trong ngày, tôi tìm thấy một cây gì không biết, lớn bằng que tăm với ba sợi rễ bám vào mặt đá, mỗi cây nhỏ xíu ấy đều đội một đóa hoa nhỏ và đỏ thắm trên đầu. Nhìn kỹ nhiều bông hoa chung quanh, tôi hiểu ra mỗi cây này chỉ sống và nở hoa trong một ngày rồi chết, cả hoa và cây đều cùng chết một lần. Tôi chỉ cho Khoa xem hiện tượng ấy, nói với Khoa rằng cây hoa này giống như con người, sống để dâng hiến cho cuộc đời một trái tim đỏ thắm, rồi im lặng chết. Hãy học bài học của bông hoa này, sống để hoàn thành hành động dâng hiến trái tim mình cho Tổ quốc, một lần thôi. Khoa chia tay tôi lội qua sông một mình, chiếc gùi mang nặng trên lưng. Tôi nhìn theo Khoa cho đến lúc cái bóng nhỏ của Khoa lần khuất trong rừng già, thầm nghĩ rằng đã hết những ngày vui vẻ trên nương rẫy, chuyến về vùng sâu lần này của Khoa là hành động nở hoa của cây cỏ dại.

Ở một quãng nào đó của sông Hương trên rừng, chúng tôi đi len lỏi trong vài tiếng đồng hồ liền giữa một loài cây dại có lá và hoa rất đẹp: lá thuôn thả hình con mắt lá răm, mặt lá bóng láng phản chiếu ánh mặt trời và hoa có năm cánh xòe ra, màu hồng thắm đẹp và nhiều giống như hoa phượng. Chúng tôi quen gọi là cây rì rì, tên Cà Tu của nó là Arui, cũng thường dùng để đặt cho những cô gái. Cây rì rì mọc sát bờ nước, và thường lan ra ôm choàng kín những vầng đá giữa giòng sông. Lần ấy chúng tôi đi công tác về ngang qua bãi rì rì bên sông, bèn dừng lại tắm sông. Tôi bơi ra xa, níu cho kỳ được một cây rì rì đứng an nhiên trên một tảng đá giữa lòng sông. Giữa lúc ấy thì trực thăng Mỹ chợt đến. Tôi chẳng biết chạy đi đâu bèn đứng im, cầm một cành hoa rì rì đỏ che trên đầu. Bạn bè tôi đều lo cho tôi, nhưng chỉ thấy tôi vẫn tiếp tục cười nói với họ, với cành hoa đỏ trên tay. Trực thăng đi qua, khẩu đại liên ở cửa máy bay chỉ cách đầu tôi một quãng ngắn. Nhưng hình như tên xạ thủ súng máy mãi chăm chú nhìn vào ven sông nên chẳng nhìn thấy tôi đứng dưới máy bay. Máy bay đi qua, tôi đứng ngật ngưỡng trên tảng đá, nhìn bao quát cả tầm mắt một dải bờ sông, hoa rì rì nở thắm cả dặm dài, giống như hoa phượng trên những đường phố. Ít ai ngờ rằng trong chiến tranh, có một lần tôi đã sững sờ đứng ngắm những bông hoa dại này.

Tôi không thể nào không nhắc đến loài hoa núi ấy mà KanLen đã hái tặng tôi lúc chia tay. Thú thật rằng đến bây giờ tôi vẫn không biết tên nó là gì, và có lẽ cả KanLen cũng không biết tên; mãi mãi nó là một bông hoa rừng vô danh. Nó lớn bằng một đóa hoa hồng, có nhiều cánh, màu xanh nước biển (suốt một thời gian dài ở Huế tôi chưa hề gặp một loài hoa nào có màu xanh cả, ngoại trừ những bông hoa cỏ, màu xanh da trời). KanLen đã hái nó từ một bụi bờ nào đó đưa cho tôi, và nói bằng giọng huyền thoại: "một nghìn năm hoa này mới nở một lần".

Cuối ngày làm việc, tôi ra thung lũng chuyện trò với KonLài. Như thường lệ, ông cùng cô con gái KanLen của ông ngồi chơi trong một chiếc nốn rộng bên bờ suối Tà Lơng của thôn A Dài. Bãi cỏ ở nơi đây rộng ngút ngàn, chạy dài suốt thung lũng, thỉnh thoảng điểm những cây ổi đầy những trái chín. Ông KonLài có vẻ là một nhà bảo vệ văn hóa Kà Tu bằng cách đi đâu cũng lăn theo một chiếc nốn thay thế giường chiếu, và dùng một chiếc ống vố nặn bằng đất sét nung với cái đuôi mây dài và đánh lửa bằng đá. Ông có một bộ dụng cụ đánh lửa rất đặc biệt. Ông dùng một lưỡi dao nặng bằng sắt quẹt mạnh vào một hòn đá rắn; tia lửa bắn vào một nhúm bùi nhùi kèm theo; tiếp theo, ông thổi mạnh vào nhúm bùi nhùi làm lửa bùng lên thành ngọn cháy lan sang một đoạn dây thừng làm bằng sợi đoác ngâm bùn và châm thuốc bằng sợi dây thừng ấy.

KanLen hôm nay diện một chiếc áo sơ mi màu đen có hoa văn trắng, và một chiếc váy màu xanh; ý chừng hai cha con sang dự hội làng ở thôn A Dài này. Trông cô thật trẻ trung và đầy sức sống. Tôi thì theo cơ quan qua nhận một tấm rẫy cũ do đồng bào ở thôn A Dài tặng. Ngồi nói chuyện gẫu với già KonLài một chốc, KanLen đưa mắt ra hiệu bảo tôi vào rừng. Chúng tôi đến một bãi cỏ rộng với nền đất ẩm mọc đầy một loài hoa cỏ dại, gần giống như hoa tường lan ở Huế; màu trắng ngà và có năm cánh. Bãi đất này chúng tôi rất thích ngồi chơi với nhau mỗi lần có việc rẫy phải qua A Dài. Tôi vừa được cơ quan gọi về làm hết mọi việc thay thế cho anh em trong tòa soạn triển khai xuống đồng bằng phát động phong trào nhân dịp địch đang hoang mang sau chiến dịch Nam Lào. Trước mắt tôi, đám hoa cỏ trắng ríu rít trong gió núi, gợi cho tôi những bông hoa ngũ sắc ngày xưa. Tôi đùa KanLen rằng tôi sắp phải về vùng sâu công tác và phải xa nàng ít lâu. KanLen rơm rớm nước mắt vì sợ tôi sẽ chết. Thời buổi ấy vùng sâu đầy ắp bọn bình định nông thôn. KanLen bảo tôi, giọng thật tội nghiệp:
- Nếu anh hy sinh, em sẽ dành cho anh một loài hoa khác để cắm trên mộ liệt sĩ hoặc trên một mô đất nào đó ở nghĩa trang xã. Còn nếu anh vẫn sống, lại đi yêu người khác thì em cầu nguyện cho những bông hoa trắng này chết đi, và em sẽ chẳng bao giờ trở lại đây nữa.
         Huế ngày 28 - 12 -2004
               H.P.N.T

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...

  • PHAN VĂN LAITrong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Huế đã nổi lên là một chiến trường xuất sắc, được Đảng, Chính phủ tặng danh hiệu: “Tiến công nổi dậy, anh dũng kiên cường”, được Bác Hồ khen ngợi: “Bác rất vui mừng vừa qua Huế đã đánh giỏi, công tác giỏi, thu được nhiều thắng lợi to lớn” và được cả nước tự hào về Huế.