Hoa bên trời

16:19 11/02/2009
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.

Hoa păng-xê

Trước hết tôi phải nói về bông hoa phù dung, mà tôi đã gặp bên một đường đồi ở Đà Lạt trước ngày tôi bỏ phố lên rừng. Thú thật là từ trước đến nay, tôi không ngờ có một loài hoa oái oăm đến thế: màu trắng buổi sáng, thì tưởng như không có vật gì ở trên đời trắng hơn, màu hồng vào buổi trưa lại quyến rũ như màu má giai nhân; và màu tím vào buổi chiều luôn luôn khiến ta đau xót, như một niềm thương tiếc khôn nguôi. Cứ ba màu như thế nối tiếp nhau, và trải qua chỉ trong một ngày. Hoa phù dung biểu lộ với tôi tấm lòng ham thích cuộc sống của nó, mặt khác, hình như nó đã phải sống hụt một đời hoa. Thậm chí, có khi ngồi buồn, tôi nghĩ rằng trong thế giới này nếu có một vật gì có vận tốc nhanh nhất thì vật ấy chính là cuộc đời của hoa phù dung. Thấy đóa hoa trắng muốt từ vườn nhà ai đổ nghiêng ra bên đường quá đẹp, tôi muốn hái về làm quà tặng cho cô bạn gái, nhưng chợt nhớ ra tôi còn bận chút việc ở phố, bèn tự nhủ đợi lúc đi phố về hẵn hái. Trưa hôm ấy, tôi gặp việc bất ngờ không trở về lối vườn cũ như đã hẹn. Mãi đến lúc chiều xế, tôi mới trở lại, với quyết tâm hái cho được bông hoa trắng gặp bên đường hồi sáng về tặng cô bạn gái nhân ngày sinh nhật. Nào ngờ tìm mãi, chỉ thấy một bông hoa tím bầm héo rũ trên cành, tôi cứ nghĩ là mình đã gặp một bông hoa khác. Sau này tôi mới hay rằng chính nó là bông hoa trắng hồi sáng, và nó tên là hoa phù dung. Từ đó mỗi lần nghe nhắc đến hoa phù dung, tôi lại thấy một cảm giác rờn rợn như đối với một số phận đầy bi thảm. Như thể rằng nó không phải là một loài thực vật, mà là một thiếu nữ.

Một thứ hoa khác mà tôi không thể không nhắc đến mỗi lần nói về hoa, là hoa ngũ sắc. Nó như một thứ quà tặng mà thiên nhiên dành cho tuổi thơ của tôi, hay nói cách khác, chính là nhờ hoa ngũ sắc mà tuổi thơ đầy ràng buộc trong sự giáo dục nghiêm khắc của cha tôi, tôi vẫn cảm thấy tuổi nhỏ của tôi có đôi phần hoang dại. Hoa ngũ sắc mọc hoang bên đường đi, mỗi đóa hoa chỉ lớn bằng đồng xu, với những cánh hoa nhỏ xíu có năm màu đỏ, gạch, vàng, trắng, xanh; trái kết thành chùm khi chín màu đen sẫm, có vị ngọt. Tôi có cái thú mỗi khi đi học về, thường tha thẩn bên những trái chín hoặc hút chất mật ngọt cuối những cánh hoa. Trước khi lên rừng, hình ảnh thân yêu của thành phố hiện ra đầy tâm trí tôi. Lúc tôi thong thả bước qua cầu Trường Tiền là hình ảnh của những bông hoa ngũ sắc, mọc hồn nhiên trên nền đổ nát của những cung điện hoang phế. Chúng sặc sỡ bên đường như một bầy trẻ con đang ríu rít chào tôi. Trong một nỗi lưu luyến như tuồng không phải đối với những bông hoa, tôi thầm thì với những bông ngũ sắc: "Tạm biệt nhé! Tạm biệt tuổi thơ của ta!".
Hai loài hoa nói trên tuy không thuộc về thế giới khói lửa của tôi nhưng chúng đã giữ một vai trò quan trọng trong tâm hồn tôi, và thường xuyên có mặt giữa những tổ hợp hoa đã cấu trúc nên thế giới tình cảm của tôi trong chiến tranh; vả lại tôi cũng e rằng tôi không còn dịp nào khác để nói về chúng.

Thời kỳ ở rừng, sáu tháng đầu, tôi vẫn được hưởng tiêu chuẩn "khách mời" của thành phố Huế. Có một đêm tôi theo cơ quan tản ra một địa điểm xa khỏi nơi đóng trụ sở để đề phòng địch mở cuộc càn quét. Địa điểm ấy là một cánh rừng thưa thuộc vùng giáp ranh, mặt đất phẳng khá rộng và mọc đầy một giống hoa địa lan lạ, trước nay tôi chưa hề thấy. Hoa gồm có một cọng dài, trên đầu nở hai tầng hoa màu khác nhau: tầng trên các cánh hoa có màu trắng, tầng dưới màu vàng cháy. Em trai tôi đi hái chừng 5 cọng hoa cắm vào một ống giang có đuôi được vạt nhọn để cắm xuống đất, mang đến đặt cạnh võng tôi. Đó là bình hoa đầu tiên em tôi tặng tôi ở Trường sơn, khi tôi đi xa chiếc bàn viết "mộng dưới hoa" của tôi ở thành phố. Sáng hôm sau, tôi thức dậy trong tiếng chim rừng và tiếng suối reo. Tôi xiết bao ngạc nhiên khi thấy cành địa lan gần tôi đã thay đổi màu từ bao giờ. Màu vàng cháy phía dưới đã dâng cao lên ngọn, và tầng hoa trắng phía trên bị thu hẹp lại. Nhìn thật kỹ, tôi chợt phát hiện rằng cành lan mà lúc đầu tôi tưởng rằng có hai màu khác nhau, hoá ra chỉ có một màu trắng, và khi càng về già, những cánh hoa trắng đều ngả sang màu vàng cháy. Tôi cảm ơn em trai tôi đã mang tặng tôi chút dư vang thân thiết của thành phố trong những ngày tôi đi "đánh bạn với lau lách" ở rừng Trường Sơn. Tôi còn phải sống nhiều năm với tình bạn ấy và sau này tôi nghiệm ra rằng đấy là những năm tháng mang tất cả ý nghĩa của cuộc đời tôi. Những tháng năm ấy giống như ý niệm hạt nhân của nguyên tử, mang toàn bộ trọng lượng của đời tôi và nếu như loại trừ những tháng năm ấy ra khỏi đời mình thì mọi biến cố còn lại của tôi sau này sẽ trở nên hụt hẫng mất trọng lượng như những vật thể ở ngoài không gian.

Tôi xin nói tiếp về một loài hoa khác.
Một hôm, tôi đi lạc vào một cánh rừng rộng đầy những cây mây song. Tôi nằm áp mặt xuống đất, dòm nghiêng dưới chân những bụi mây, cố tìm dấu vết của những con heo rừng thường ẩn nấp trong đó. Ở một bụi cây, tôi tình cờ phát hiện một loại cây chi mà lá phiến tròn cuống dài trông như bụi rau má; biết đâu nếu quả là rau má thì tốt quá; những năm này chúng tôi đang đói. Tôi nhổ một bụi cây nhỏ và lùi ra khỏi gốc mây, mân mê nhìn kỹ. Dưới chân những cuống lá, có một đám hoa vàng chói; hình như những chiếc lá cố tình vươn lên cao để giấu kín hoa. A, đúng là hoa păng-xê, nhưng ở đây hoa không có màu tím than mà trở nên vàng chói; tuy nhiên trông nó vẫn tinh khiết và cao sang lạ lùng. Hoa păng-xê có tên trong danh sách những loài hoa quý mà những người yêu nhau thường tặng cho nhau để thay lời nhắn nhủ: "Đừng để ai biết chúng mình yêu nhau" . Ở giai đoạn bắt đầu, người ta thường có thói quen giấu kín người khác về tình yêu của mình; có lẽ vì vậy mà người ta gọi tâm hồn con người là một "khu vườn bí mật". Nhiều cô gái ở thành phố vẫn thích ghim một biểu tượng hoa păng-xê trước ngực áo; để hé mở một chút về "khu vườn bí mật" của mình, như vậy, trông lại càng quyến rũ.

Tôi nhớ hoạ sĩ Đinh Cường có vẽ tặng tôi bức sơn dầu "Bản giao hưởng bỏ dở" trong đó vẽ một lọ hoa păng-xê đặt trên một chiếc dương cầm với chiếc ghế ngồi bỏ trống. Có một dạo tôi rất mê hoa păng-xê. Cô em gái của tôi bèn nhổ trộm cây hoa ấy trong vườn hoa của bà hiệu trưởng định mang về tặng tôi. Chẳng may sự việc bị phát giác và cô bé tội nghiệp suýt bị đưa ra toà án về tội ăn cắp. Hoa păng-xê đã để lại một kỷ niệm cay đắng như thế trong tâm hồn tôi, nên tôi chợt vui mừng vô kể khi gặp lại nó giữa chốn hoang vu này. Dù nó không phải màu tím nhưng tôi cứ tin rằng nó là hoa păng -
xê thứ thiệt; biết đâu hoa păng-xê cũng có một màu khác, giống như kỷ niệm có nhiều màu. Tôi nghĩ rằng nhiều thứ hoa thường thấy đều là hoa trang trí nội thất, trong khi păng-xê lại là hoa trang trí tâm hồn. Tôi yêu hoa păng-xê vì nó là dấu hiệu của nội tâm thầm kín, nó mang trả cho tôi những ngày rong chơi tha hồ khi còn ở thành phố. Tôi tình cờ phát hiện ra nó ở một cánh rừng hoang dại mà tôi chỉ đi qua có một lần, đưa nó ra ánh sáng từ một mặt đất ẩm ướt, dưới chân tối mờ và gai góc của một bụi mây song. Tôi ao ước một ngày chấm dứt chiến cuộc để tôi đi lang thang trên những nẻo đường rụng đầy lá vàng tươi, hoặc ngẩn ngơ đứng nhìn giòng sông mượt mà trôi đi với những con đò áo trắng, và tôi sẽ hoàn toàn hạnh phúc trong thành phố của tôi, với một biểu tượng của hoa păng-xê trên ngực. Mặt khác, tôi biết rằng tôi còn phải đánh bạn với lau lách trong nhiều năm; vật mà tôi luôn có bên mình, chính là khẩu súng, không phải là hoa, và còn lâu mới đến hoa păng-xê. Và đến bao giờ thì những bạn bè tri kỷ của tôi hiện ở phố biết được rằng chính tôi đã khám phá ra một loài hoa păng-xê màu vàng từ trong lòng một cánh rừng Trường Sơn? Ngày đó, thì chắc tôi đã già. Lau lách trên núi cũng già. Nhưng hoa păng-xê thì mãi mãi vẫn giữ riêng một điều gì thầm kín.

Chiến tranh càng kéo dài, những kháng chiến quân thành phố càng bị đẩy dần lên cao trên Trường Sơn; ở đó là rừng già, và hoa dại càng trở nên hiếm hoi. Thỉnh thoảng, tôi lại gặp một cây tùng độc lập, với những con đại bàng viễn du ghé lại ăn trái tùng, hoặc những đêm ngủ rừng, thức giấc tôi nghe cả tiếng đười ươi hú...
Tôi rất ít gặp hoa nhưng âm thầm trong lòng, tôi vẫn nhớ chúng. Cơ quan di chuyển nhiều nơi, tôi vẫn lích kích mang theo ba lô một mảnh gỗ mục có bám mấy sợi rễ phong lan, đem về treo lủng lẳng ở chỗ làm việc. Cái giống phong lan thật lạ đời, sống không cần đất và nước, thường thì trông xấu xí, cục mịch và im lìm đến độ tưởng rằng nó đã chết. Nhưng cứ đến mùa thì nó lại bất ngờ ra hoa, hoa đẹp và kỳ lạ không thể tưởng. Cành phong lan của tôi cũng thế. Một mùa xuân, nó đã nở ra cho tôi hai giò hoa đầy những hoa vàng với những chấm tím. Chính nhờ có nó mà tôi biết rằng mùa xuân đã về, vì theo thói quen, tôi làm việc không hề nhìn đến quyển lịch. Nó khiêm tốn và kiên cố như một chân lý, cứ đúng lúc lại xuất hiện.

Những lần công tác, tôi thường men theo giòng sông Hương chảy trên rừng. Lần ấy có Khoa cùng đi với tôi. Chúng tôi đi dạo dọc theo bờ sông Hương đúc bằng một dải đá liền xa đến mút mắt, lô nhô những hòn đá nhoi cao hơn như hình những nhà sư ngồi thiền định bên sông, cạnh những ục nước mà khi thủy triều rút xuống, còn để lại ít nước và những con cá sao chạy loăng quăng từ ục này sang ục khác. Trình thường đi công tác ghé qua đây, dùng súng AK bắn thẳng vào những ục đá lớn để vớt những con cá sao nổi lềnh bềnh đem về nấu canh với lá giang. Ở những ục đá nhỏ hơn mà nước sông đã kịp khô đi trong ngày, tôi tìm thấy một cây gì không biết, lớn bằng que tăm với ba sợi rễ bám vào mặt đá, mỗi cây nhỏ xíu ấy đều đội một đóa hoa nhỏ và đỏ thắm trên đầu. Nhìn kỹ nhiều bông hoa chung quanh, tôi hiểu ra mỗi cây này chỉ sống và nở hoa trong một ngày rồi chết, cả hoa và cây đều cùng chết một lần. Tôi chỉ cho Khoa xem hiện tượng ấy, nói với Khoa rằng cây hoa này giống như con người, sống để dâng hiến cho cuộc đời một trái tim đỏ thắm, rồi im lặng chết. Hãy học bài học của bông hoa này, sống để hoàn thành hành động dâng hiến trái tim mình cho Tổ quốc, một lần thôi. Khoa chia tay tôi lội qua sông một mình, chiếc gùi mang nặng trên lưng. Tôi nhìn theo Khoa cho đến lúc cái bóng nhỏ của Khoa lần khuất trong rừng già, thầm nghĩ rằng đã hết những ngày vui vẻ trên nương rẫy, chuyến về vùng sâu lần này của Khoa là hành động nở hoa của cây cỏ dại.

Ở một quãng nào đó của sông Hương trên rừng, chúng tôi đi len lỏi trong vài tiếng đồng hồ liền giữa một loài cây dại có lá và hoa rất đẹp: lá thuôn thả hình con mắt lá răm, mặt lá bóng láng phản chiếu ánh mặt trời và hoa có năm cánh xòe ra, màu hồng thắm đẹp và nhiều giống như hoa phượng. Chúng tôi quen gọi là cây rì rì, tên Cà Tu của nó là Arui, cũng thường dùng để đặt cho những cô gái. Cây rì rì mọc sát bờ nước, và thường lan ra ôm choàng kín những vầng đá giữa giòng sông. Lần ấy chúng tôi đi công tác về ngang qua bãi rì rì bên sông, bèn dừng lại tắm sông. Tôi bơi ra xa, níu cho kỳ được một cây rì rì đứng an nhiên trên một tảng đá giữa lòng sông. Giữa lúc ấy thì trực thăng Mỹ chợt đến. Tôi chẳng biết chạy đi đâu bèn đứng im, cầm một cành hoa rì rì đỏ che trên đầu. Bạn bè tôi đều lo cho tôi, nhưng chỉ thấy tôi vẫn tiếp tục cười nói với họ, với cành hoa đỏ trên tay. Trực thăng đi qua, khẩu đại liên ở cửa máy bay chỉ cách đầu tôi một quãng ngắn. Nhưng hình như tên xạ thủ súng máy mãi chăm chú nhìn vào ven sông nên chẳng nhìn thấy tôi đứng dưới máy bay. Máy bay đi qua, tôi đứng ngật ngưỡng trên tảng đá, nhìn bao quát cả tầm mắt một dải bờ sông, hoa rì rì nở thắm cả dặm dài, giống như hoa phượng trên những đường phố. Ít ai ngờ rằng trong chiến tranh, có một lần tôi đã sững sờ đứng ngắm những bông hoa dại này.

Tôi không thể nào không nhắc đến loài hoa núi ấy mà KanLen đã hái tặng tôi lúc chia tay. Thú thật rằng đến bây giờ tôi vẫn không biết tên nó là gì, và có lẽ cả KanLen cũng không biết tên; mãi mãi nó là một bông hoa rừng vô danh. Nó lớn bằng một đóa hoa hồng, có nhiều cánh, màu xanh nước biển (suốt một thời gian dài ở Huế tôi chưa hề gặp một loài hoa nào có màu xanh cả, ngoại trừ những bông hoa cỏ, màu xanh da trời). KanLen đã hái nó từ một bụi bờ nào đó đưa cho tôi, và nói bằng giọng huyền thoại: "một nghìn năm hoa này mới nở một lần".

Cuối ngày làm việc, tôi ra thung lũng chuyện trò với KonLài. Như thường lệ, ông cùng cô con gái KanLen của ông ngồi chơi trong một chiếc nốn rộng bên bờ suối Tà Lơng của thôn A Dài. Bãi cỏ ở nơi đây rộng ngút ngàn, chạy dài suốt thung lũng, thỉnh thoảng điểm những cây ổi đầy những trái chín. Ông KonLài có vẻ là một nhà bảo vệ văn hóa Kà Tu bằng cách đi đâu cũng lăn theo một chiếc nốn thay thế giường chiếu, và dùng một chiếc ống vố nặn bằng đất sét nung với cái đuôi mây dài và đánh lửa bằng đá. Ông có một bộ dụng cụ đánh lửa rất đặc biệt. Ông dùng một lưỡi dao nặng bằng sắt quẹt mạnh vào một hòn đá rắn; tia lửa bắn vào một nhúm bùi nhùi kèm theo; tiếp theo, ông thổi mạnh vào nhúm bùi nhùi làm lửa bùng lên thành ngọn cháy lan sang một đoạn dây thừng làm bằng sợi đoác ngâm bùn và châm thuốc bằng sợi dây thừng ấy.

KanLen hôm nay diện một chiếc áo sơ mi màu đen có hoa văn trắng, và một chiếc váy màu xanh; ý chừng hai cha con sang dự hội làng ở thôn A Dài này. Trông cô thật trẻ trung và đầy sức sống. Tôi thì theo cơ quan qua nhận một tấm rẫy cũ do đồng bào ở thôn A Dài tặng. Ngồi nói chuyện gẫu với già KonLài một chốc, KanLen đưa mắt ra hiệu bảo tôi vào rừng. Chúng tôi đến một bãi cỏ rộng với nền đất ẩm mọc đầy một loài hoa cỏ dại, gần giống như hoa tường lan ở Huế; màu trắng ngà và có năm cánh. Bãi đất này chúng tôi rất thích ngồi chơi với nhau mỗi lần có việc rẫy phải qua A Dài. Tôi vừa được cơ quan gọi về làm hết mọi việc thay thế cho anh em trong tòa soạn triển khai xuống đồng bằng phát động phong trào nhân dịp địch đang hoang mang sau chiến dịch Nam Lào. Trước mắt tôi, đám hoa cỏ trắng ríu rít trong gió núi, gợi cho tôi những bông hoa ngũ sắc ngày xưa. Tôi đùa KanLen rằng tôi sắp phải về vùng sâu công tác và phải xa nàng ít lâu. KanLen rơm rớm nước mắt vì sợ tôi sẽ chết. Thời buổi ấy vùng sâu đầy ắp bọn bình định nông thôn. KanLen bảo tôi, giọng thật tội nghiệp:
- Nếu anh hy sinh, em sẽ dành cho anh một loài hoa khác để cắm trên mộ liệt sĩ hoặc trên một mô đất nào đó ở nghĩa trang xã. Còn nếu anh vẫn sống, lại đi yêu người khác thì em cầu nguyện cho những bông hoa trắng này chết đi, và em sẽ chẳng bao giờ trở lại đây nữa.
         Huế ngày 28 - 12 -2004
               H.P.N.T

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.

  • VĨNH NGUYÊN                Truyện kýSau “vụ” gặp em, tôi băn khoăn lắm lắm. Là bởi trước đó - trước quả rốc-két mà chiếc F4H phóng xuống và em bị thương dưới đùi, em đang chờ tháo dây thuyền ở hốc đá, còn tôi thì giữ lấy ống ti-dô cho nước vào hai cái thùng phuy trên thuyền cho em. Hai chiếc thùng phuy 400 lít nước sắp tràn đầy. Như vậy là quá đủ thời gian cho chúng ta có thể hiểu biết về nhau, tên tuổi, quê hương bản quán.

  • ĐẶNG VĂN SỞ          Ghi chépKhông hiểu sao tôi lại đi tìm anh - anh Nguyễn Đức Thuận - người anh chú bác ruột cùng chung sống dưới một mái nhà với tôi. Tôi chỉ nhớ là hồi đó chồng của cô tôi nằm mơ thấy anh, và bác vào tận Nha Trang để đi tìm anh Mậu, người đồng đội và là người chứng kiến lúc chôn cất anh.

  • NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...

  • ĐÀO XUÂN QUÝĐã lâu lắm, có đến hơn hai năm, kể từ khi bị tai nạn ở chân tôi chưa đi vào các hiệu sách, kể cả các hiệu sách ở Nha Trang. Đi tới các hiệu sách thì xa quá, đi bộ thì không đi nổi, mệt và nóng lắm, mà đi xe thuê thì cũng khó, vì họ không phải chỉ đưa mình tới nơi mà còn phải đợi hàng giờ khi mình phải tìm chọn sách nơi này nơi nọ, quầy này quầy khác v.v...

  • NGUYỄN THANH CHÍHai mươi tám tuổi, nó không biết chữ và không quen đi dép, mặc áo quần dài; lầm lũi, ít nói nhưng rất khoẻ mạnh... Với nó rừng là nhà, các lối mòn trong rừng thì thuộc như lòng bàn tay... Đó là Trương Ngọc Hoàng, sinh năm 1977.

  • NGUYỄN TRỌNG BÍNHMọi chuyện xẩy ra suốt 55 ngày đêm ở đơn vị trong cuộc tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi đều nhớ như in. Thế mà, lạ lùng thay, suốt thời gian đó, hàng ngày mình ăn thế nào, lại không nhớ nổi. Chỉ nhớ mang máng có lúc ăn cơm nắm, ăn lương khô. Về giấc ngủ, có thể là tranh thủ nửa ngủ nửa thức giữa 2 trận đánh hoặc lúc ngồi trên xe trong đội hình hành tiến. Cố hình dung, tôi nhớ được bữa cơm chiều ở dinh Độc Lập, hôm 30-4-1975.

  • NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.

  • HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)

  • LÊ HOÀNG HẢICon người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.

  • HỒ NGỌC PHÚTôi về lại Huế sau trận lụt tuy muộn nhưng khá lớn vào gần cuối tháng 12 năm 2004. Ngồi ở quán cà phê Sơn bên bờ chân cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương vào lúc sáng sớm sao thấy khang khác, trong có vẻ như sáng hơn ngày thường.

  • NGUYỄN THẾ QUANG(Chuyện tình chưa kể của nhà thơ Hoàng Cầm)

  • VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.

  • NGUYỄN QUANG HÀSông Bồ là con sông không dài, nhưng đẹp ở về phía Bắc Huế. Phía tả ngạn, hữu ngạn vùng thượng lưu sông là hai huyện Phong Điền và Hương Trà, vùng hạ lưu sông chảy qua Quảng Điền rồi đổ vào phá Tam Giang. Làng xóm hai bên bờ sông khá trù mật.

  • MINH CHUYÊN (Tiếp Sông Hương số 12-2008)

  • MINH CHUYÊN (Tiếp theo và hết)

  • LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.