HÀ VĂN LƯỠNG
Trong thể loại tự sự, người trần thuật giữ một vai trò quan trọng, góp phần làm nên giá trị nghệ thuật tự sự của tác phẩm văn học.
Ảnh: internet
Ở thể loại truyện ngắn của Haruki Murakami, cùng với các yếu tố khác của trần thuật như điểm nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật, hình tượng người trần thuật thể hiện một cách khá rõ và linh hoạt tài năng của nhà văn. Qua các tập truyện ngắn của H. Murakami đã được dịch ở Việt Nam, chúng tôi khảo sát hình tượng người trần thuật trên hai bình diện: trần thuật ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba.
Trong nền văn học Nhật Bản đương đại vài chục thập niên trở lại đây, Haruki Murakami nổi lên như một hiện tượng văn học đặc sắc, mới lạ được đông đảo bạn đọc trong nước và nhiều nước trên thế giới đón nhận với sự ngưỡng mộ, thán phục. Tài năng văn chương của ông không chỉ thể hiện trong các tiểu thuyết, mà còn ở thể loại truyện ngắn. Trong truyện ngắn của H. Murakami, bên cạnh các yếu tố khác làm nên giá trị tác phẩm như kết cấu, cốt truyện, không gian và thời gian nghệ thuật…, thì nghệ thuật trần thuật giữ một vị trí quan trọng. Bởi vì: “Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm chú ý của ý thức văn học từ hệ thống sự kiện “thắt nút”, “mở nút”, sang chủ thể thẩm mỹ của tác phẩm tự sự.”(1)
Trên cơ sở khảo sát truyện ngắn của H. Murakami trong các tuyển tập ngắn (Sau cơn động đất, Đom đóm, Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, Bóng ma ở Lexingtơn, Người tivi), chúng tôi chỉ ra hình tượng người trần thuật và khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Trong thể loại tự sự, người trần thuật (hay người kể chuyện) là một khái niệm trung tâm của lý thuyết tự sự học. Người trần thuật trong tác phẩm là một người hư cấu hoặc có thật mà văn bản tự sự thể hiện thông qua hành vi và ngôn ngữ của anh ta tạo thành. Nhìn chung, người trần thuật thực hiện nhiệm vụ trần thuật, truyền đạt, chỉ dẫn, bình luận… những vấn đề được mô tả hoặc được kể trong tác phẩm. Thông thường, người ta chia người trần thuật trong tác phẩm tự sự thành hai dạng chủ yếu: người trần thuật lộ diện (ngôi thứ nhất) và người trần thuật ẩn tàng (ngôi thứ ba).
Ở các truyện ngắn của H. Murakami, hầu hết người trần thuật được đặt ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Mỗi truyện được kể ở một ngôi nhất định, nhưng cũng có truyện, tác giả đan xen giữa hai ngôi kể chuyện. Điều đó một mặt, khai thác sâu sắc hơn thế giới nội tâm nhân vật, mặt khác chính sự kết hợp nhiều ngôi kể chuyện góp phần làm phong phú thêm sự đa dạng của tác phẩm, khẳng định phong cách của H. Murakami.
Theo thống kê của chúng tôi, trong 63 truyện ngắn của H. Murakami được dịch ở Việt Nam và in trong 5 tuyển tập, thì có 43 truyện kể ở ngôi thứ nhất, 11 truyện kể ở ngôi thứ ba và 9 truyện được kể xen kẽ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Như vậy, kể chuyện ở ngôi thứ nhất chiếm số lượng nhiều hơn cả (trên 70%) so với các ngôi kể khác. Điều đó hoàn toàn đúng với phong cách nghệ thuật tự sự của truyện ngắn H. Murakami. Nhưng sự thay đổi người trần thuật trong các truyện của nhà văn không phải là một sự tùy tiện mà chính là do chủ ý của tác giả khi sáng tác và không hề làm mất đi tính khách quan, giá trị chân thực của tác phẩm.
Bảng thống kê các ngôi kể chuyện trong 5 tập truyện ngắn của H. Murakami
STT |
Các tuyển tập truyện ngắn |
Số lượng truyện |
Kể ngôi thứ nhất |
Kể ngôi thứ ba |
Xen kẽ các ngôi |
1 |
Ngày đẹp trời để xem Kangaroo |
18 | 15 | 0 | 03 |
2 |
Bóng ma ở Lexingtơn |
14 | 10 | 01 | 03 |
3 | Người tivi | 14 | 07 | 05 | 02 |
4 | Đom đóm | 11 | 11 | 0 | 0 |
5 | Sau cơn động đất | 06 | 0 | 05 | 01 |
|
Tổng cộng |
63 |
43 |
11 |
09 |
Mặt khác, trong các tập truyện, người trần thuật ở các ngôi cũng có số lượng khác nhau. Trên bảng thống kê cho chúng ta thấy, ở tập truyện ngắn Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, Haruki Murakami sử dụng chủ yếu là kể chuyện ở ngôi thứ nhất (15 truyện/18 truyện), không kể ở ngôi thứ ba mà có sự xen kẻ giữa hai ngôi trên, nhưng số lượng rất ít (3 truyện/18 truyện). Các tập truyện ngắn khác, tỷ lệ kể ở ngôi thứ nhất chiếm đa số, thậm chí tất cả đều kể ở ngôi thứ nhất (Đom đóm). Nhưng ở tập truyện Sau cơn động đất, thì chỉ kể ở ngôi thứ ba (5 truyện) hoặc xen kẽ ngôi thứ nhất và thứ ba (01 truyện). Sự thay đổi vị trí người trần thuật có số lượng khác nhau như trên trong các truyện, các tập truyện của Haruki Murakami là nhằm hướng đến thể hiện những vấn đề cụ thể mà nhà văn quan tâm và nằm trong hệ thống thủ pháp của tác giả. Qua khảo sát các tập truyện, chúng tôi sẽ chỉ ra hình tượng người kể truyện ở ngôi thứ nhất, thứ ba và các ngôi xen kẽ trong truyện ngắn H. Murakami.
1. Người trần thuật ngôi thứ nhất
Truyện kể ở ngôi thứ nhất là câu chuyện được kể lại do một người kể chuyện hiện diện (lộ diện) như một nhân vật trong truyện. Với hình thức này, người kể chuyện trực tiếp tham gia vào câu chuyện và hiện hữu trong thế giới mà nhân vật hoạt động. Chính ngôi kể chuyện này tạo cảm giác cho người đọc có độ tin cậy cao về những sự việc và con người được nói đến trong truyện. Mặt khác, việc nhân vật xưng “tôi” ở ngôi thứ nhất giúp người kể đi sâu khám phá thế giới nội tâm, những mối quan hệ, những diễn biến phức tạp của tâm lý nhân vật. Khi đề cập vấn đề người trần thuật trong truyện, trong một lần trả lời phóng vấn, H. Murakami nói rằng: “Khi viết ở ngôi thứ ba, tôi có cảm giác mình như Chúa trời. Mà tôi không thích làm Chúa trời. Tôi không thể biết tuốt, không thể viết về tất cả mọi thứ. Tôi chỉ là chính mình thôi. Tôi viết cái gì đó từ chính bản thân mình. Tôi không có ý nói tôi là nhân vật chính, nhưng tôi phải mường tượng được những gì nhân vật chính của mình chứng kiến và trải nghiệm. Viết giúp tôi khám phá tiềm thức của bản thân. Đó cũng chính là quá trình tôi kể chuyện. Đó cũng là điều hấp dẫn nhất mà tôi từng làm. Với tôi, kể một câu chuyện cũng giống như là những gì xẩy ra khi xuống phố. Tôi yêu đường phố nên mỗi khi xuống đường, tôi quan sát, nghe và cảm nhận mọi thứ. Khi làm như vậy, bạn sẽ cảm nhận sự thay đổi của thế giới theo một cách riêng”(2). Sự biến hóa, “nhập vai” của người kể chuyện ở ngôi thứ nhất xưng “tôi” trong các truyện ngắn của H. Murakami rất đa dạng. Trong truyện Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, nhân vật “tôi” trong vai vợ chồng đi đến sở thú để xem một chú Kangaroon mới ra đời: “Tất nhiên là vợ chồng tôi nhắm đến chuyện xem bé Kangaroo mới sinh. Ngoài ra, không nghĩ ra được con vật nào khác cần xem cả. Vợ chồng tôi từ một tháng trước đã đọc trên báo mà biết có bé Kangaroo mới sinh… Sáng 6 giờ, vợ chồng tôi thức giấc, mở màn cửa sổ ra thì xác định được tức thì hôm ấy là ngày đẹp trời, để đi xem Kangaroo…”(3). Nhân vật “tôi” kể lại câu chuyện mà vợ chồng anh ta đã trải qua, đó là ngày đẹp trời đi xem con Kangaroo bé nhỏ mới ra đời. Vì thế, những sự kiện và nhân vật được kể trong truyện đều được nhà văn đặt trong dấu ngoặc kép (tức câu chuyện đã xảy ra). Ở đây, lời dẫn của nhân vật “tôi” hiện diện trong truyện vừa là người dẫn dắt, giới thiệu diễn biến của truyện và cũng là người trực tiếp tham gia vào nội dung chuyện kể. Sự kết hợp linh hoạt việc kể chuyện này là sự đan xen giữa thời gian hiện tại và thời gian quá khứ cùng đồng hiện trong hiện tại. Đom đóm là câu chuyện về mối quan hệ chằng chịt, không phân định chập chờn như đom đóm của ba nhân vật “tôi, hắn và em”. Nhưng nhân vật “tôi” vẫn giữ vai trò chủ yếu. Những day dứt, niềm vui nỗi buồn đan xen tuổi yêu đương thời sinh viên đưa nhân vật “tôi” rơi vào cảm giác cô đơn, lạc lỏng trước những cảnh xa hoa, tráng lệ, những cảnh sa đọa của đời thường để rồi cố tìm về với những gì xưa cũ, thân quen, những giá trị truyền thống ngày xưa. Nhân vật tôi trong Đom đóm đã rất hối tiếc về những gì tươi đẹp đã qua: “Đom đóm đã bay mất rồi, nhưng quỹ tích ánh sáng của đom đóm vẫn còn lưu lại trong tôi rất lâu. Trong bóng tối dày đặc của mắt tôi đang nhắm lại, đom đóm nhỏ nhoi ấy lạc lỏng hoài như một mảnh linh hồn lạc mất lối về. Tôi vài lần thử rón rén vươn tay vào khoảng tối ấy, nhưng nhón tay tôi không chạm được gì. Đốm sáng nhỏ nhoi ấy lúc nào cũng cách một khoảng vô cùng ngắn trước đầu ngón tay tôi.”(4)
Như trên chúng tôi đã thống kê, tất cả 11 truyện trong tập Đom đóm đều được kể ở ngôi thứ nhất. Nhân vật “tôi” xuất hiện trong tất cả các truyện với vai trò chủ thể, người chứng kiến, người kể lại câu chuyện dưới các “vai” khác nhau. Đó là chuyện của “tôi và nàng” do tôi kể lại (Đốt nhà kho), nhân vật tôi và người lùn (Người lùn nhảy múa), nhân vật tôi và người em họ (Cây liễu mù và cô gái ngủ), chuyện nhân vật tôi đột nhập vào tiệm bánh mỳ (Tái tập kính tiệm bánh mỳ), chuyện của nhân vật tôi và cô em góa (Chuyện trong nhà)… Mở đầu truyện Chuyện trong nhà, nhà văn viết: “Không hiểu có phải là chuyện thường tình trên đời không, ngay từ buổi đầu, tôi đã không thể nào ưa được anh chàng vị hôn phu của em tôi. Rồi về sau, ít nhất tôi lại còn ôm thêm nghi vấn về việc em tôi quyết tâm kết hôn với chàng ta. Thật tình tôi đã thất vọng về việc ấy”(5). Và toàn bộ diễn biến của truyện được kể lại ở ngôi thứ nhất (nhân vật người anh).
Trong tập Bóng ma ở Lexingtơn, có 10/14 truyện được kể ở ngôi thứ nhất (Chuyện bà cô nghèo, Thông báo Kangaroo, Vườn cỏ buổi chiều cuối cùng, Con chó nhỏ của nàng trong lòng đất, Bóng ma ở Lexingtơn…). Sau khi kể hết câu chuyện mà mình đã từng chứng kiến, nhân vật “tôi” trong truyện nói: “Thỉnh thoảng, tôi lại nhớ đến những bóng ma ở Lexingtơn. Lũ ma bí hiểm đã mở tiệc huyên náo giữa khuya trong phòng khách của ngôi nhà xưa cũ của Casey… Tôi chưa hề kể chuyện này cho ai nghe. Nghĩ cho cùng thì hẳn là chuyện kỳ dị thiệt đấy, thế nhưng có lẽ vì cảm giác xa xôi vời vợi ấy mà tôi chẳng thấy gì là kỳ dị cả.”(6)
Ở tập truyện Người tivi, trong 14 truyện thì có 7 truyện kể ngôi thứ nhất, số còn lại ngôi thứ ba và xen kẻ hai ngôi. Nếu trong truyện Người tivi, người kể chuyện nhân danh “tôi” kể về người tivi, nhân vật tôi - tác giả trong Truyền thuyết dân gian của thời đại chúng tôi, nói về thời đại đất nước Nhật Bản những thập niên 60 của thế kỷ XX, người kể chuyện xưng “tôi” trong Giấc ngủ nói về chứng mất ngủ và mơ màng của anh ta thì truyện Quần cộc kiểu Đức, Người đàn ông đi tắcxi, Cho nữ hoàng đã mất, nhân vật từ kể về những kỷ niệm hoặc những chuyện, những việc liên quan đến mình trong quá khứ. Dường như đó là những hồi tưởng của nhân vật được kể lại ở ngôi thứ nhất. Trong truyện Giấc ngủ, mở đầu tác phẩm, tác giả viết: “Tôi không ngủ được đã đến ngày thứ 17 rồi… Trong một tháng ấy, không một lần nào tôi ngủ cho ra ngủ. Đêm đến, vào giường nằm, nghỉ là ngủ đi thôi. Và thế là, cứ như phản xạ mà tỉnh như sáo ngay. Cố gắng mấy cũng không ngủ được… Đầu óc tôi lúc nào cũng mơ hồ mù sương. Không phán định chính xác được sự ly, chất lượng hay cảm xúc của sự vật…”(7). Trong truyện Đốt nhà kho, nhân vật “tôi” đã được nhân vật “chàng” kể lại câu chuyện đốt nhà kho táo bạo và rất mạo hiểm. Hành động đó ám ảnh nhân vật “tôi” và anh ta tỏ ra hoài nghi: “Quả thật, có đôi lúc tôi nghĩ thay vì kiên trì chờ đợi chàng ta đốt nhà kho, chi bằng tự mình quẹt diêm đốt quách đi thì đỡ thấp thỏm hơn… Vấn đề thực tế là tôi không bao giờ đốt nhà kho. Đốt nhà kho là chàng ta kia mà. Có lẽ chàng đã đổi ý, định đốt nhà kho ở khu vực nào khác rồi. Hay có lẽ là bận bịu quá chưa tìm ra thì giờ để đi đốt nhà kho”(8). Ở Người lùn nhảy múa, nhân vật “tôi” kể về một giấc mộng kỳ bí vừa thực vừa hư về người lùn nhảy múa trong rừng: “Tôi đắm mình vào điệu nhảy ấy cảm thấy được rõ ràng chuyển động của tinh tú, những đợt lên xuống của thủy triều, những còn bay của gió… Trong túi tôi, quả cầu ánh sáng màu bàu bạc trắng lại bắn tung ra những tia sáng rực rỡ theo mỗi vòng xoay ấy”(9).
Như vậy, dù có sự “biến ảo” và linh hoạt trong ngôi kể thứ nhất, được phủ dưới một hình thức trực tiếp, hiện thực, hay dưới những yếu tố kỳ ảo, trong giấc mơ ly kỳ…, nhưng nhìn chung, sự việc và con người trong truyện ngắn của H. Murakami phần lớn đều được kể với nhân vật “tôi” hoặc vai “tôi”.
2. Người trần thuật ngôi thứ ba
Trong văn học cổ và văn học trung đại, chủ yếu là người trần thuật ở ngôi thứ ba. Nhưng đến thế kỷ XIX bắt đầu ở châu Âu và về sau lan rộng ra trong văn học thế giới cho đến nay, hình thức kể chuyện ngôi thứ nhất mới thịnh hành. Tuy thế, trong văn xuôi tự sự, bên cạnh trần thuật ngôi thứ nhất vẫn còn không ít nhà văn để cho nhân vật trần thuật ở ngôi thứ ba. Ngôi thứ ba cho phép người kể có thể kể về nhiều chuyện, nhiều người, cả những bí mật trong tâm hồn con người. Ngôi kể này mang tính khách quan và tự do nhất. Loại người trần thuật ẩn tàng (hay còn gọi theo ngôi thứ ba) cho phép nhà văn có cơ hội quan sát toàn diện cuộc sống cũng như số phận con người và phản ánh nó vào tác phẩm một cách cụ thể, khách quan. Với ngôi thứ ba, người thuật chuyện dường như là người “toàn thông” sắm vai “thực tế” để “phán xét” về mọi điều.
Trong truyện ngắn của H. Murakami, người trần thuật ở ngôi thứ ba chiếm số lượng không nhiều. Theo thống kê trên của chúng tôi thì trong số 63 truyện ở 5 tuyển tập truyện ngắn của nhà văn thì chỉ có 11 truyện được kể ở ngôi thứ ba, chiếm tỷ lệ khoảng 1/6. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan niệm của H. Murakami về viết truyện ngắn. Trong hai tập truyện ngắn Sau cơn động đất và Người tivi, đặc biệt là Sau cơn động đất, H. Murakami chủ yếu để người trần thuật ở ngôi thứ ba. Nếu ở Người tivi chỉ có 5/14 truyện kể ở ngôi thứ ba, thì trong Sau cơn động đất có đến 5/6 truyện được trần thuật theo ngôi này. Ở các truyện trên, ngôi kể thứ ba rất linh hoạt, góp phần vào việc khai thác, mổ xẻ tâm lý nhân vật một cách sâu sắc, cụ thể. Người trần thuật dường như đứng độc lập, khách quan kể và miêu tả về mọi việc trong tác phẩm. Mô tả một anh nhân viên bán hàng và cuộc sống của anh ta, trong truyện Đĩa bay đáp xuống Kushiro, H. Murakami viết: “Người dong dỏng cao, rành ăn mặc và giỏi cư xử. Hồi còn độc thân, Komura có rất nhiều bạn gái… trong 5 năm nay sau ngày kết hôn, anh không ngủ với người đàn bà nào ngoài vợ. Không phải vì không có cơ hội; anh hoàn toàn không còn thấy hứng thú gì trong quan hệ trai gái qua đường nữa. Thay vào đó, anh muốn mau sớm về nhà cùng vợ thong thả dùng bữa, rồi chuyện trò trên ghế dài phòng khách, xong vào giường nghỉ ngơi, ân ái”(10). Với ngôi kể chuyện này, nhân vật được thể hiện không chỉ qua chân dung, cử chỉ mà cả cuộc sống nội tâm và sở thích của anh ta. Ở truyện Phong cảnh có bàn ủi, khi nói về cuộc gặp gỡ vào đêm khuya tại bờ biển, nhà văn tái hiện cảnh đốt lửa, uống rượu với một giọng văn khách quan, từ sự quan sát bên ngoài: “Junko tiếp lấy bình rượu, rót vào nắp bình, rồi nhắm rượu từng chút một. Cô nghiêm mặt dõi theo cảm giác đặc thù của giòng chất lỏng ấm ấp chảy từ thực quản xuống dạ dày… Đến phiên ông Miyake nhẹ nhàng uống một ngụm rồi Keisuke lại tu một ngụm lớn. Bình rượu sang tay từ người này sang người kia. Lửa nhóm không hấp tấp mà từ từ bốc lên thành ngọn lửa đỏ rực… Lửa ấy như chỉ để sưởi ấm lòng người”(11). Với ngôi kể thứ ba, H. Murakami thể hiện sự tinh tế trong cách mô tả các chi tiết và hành động của các nhân vật. Từ cách uống rượu đến ngọn lửa được thắp sáng trong đêm, thể hiện sự gắn bó giữa ba nhân vật và nói lên cuộc sống bình dị, chân chất của con người thấm đẫm tình đời, tình người. Ở một số truyện trong tập Sau cơn động đất (Thái Lan, Các con của thượng đế đầu nhảy múa, Bánh mật ong…), và tập Người tivi (Sân bóng chày, Buồn nôn 1979, Bên hồ bơi, Xác ướp…), nhà văn cũng tường thuật chủ yếu ở ngôi thứ ba.
Bên cạnh người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, H. Murakami đồng thời xen kẻ các ngôi kể một cách khá nhuần nhuyễn và linh hoạt. Trong các tập truyện ngắn của nhà văn, mặc dù chỉ có 9/63 truyện được tác giả kết hợp xen kẽ ngôi kể chuyện, nhưng cũng phần nào phản ánh tính chất đa dạng, phong phú trong nghệ thuật trần thuật. Hầu hết các truyện kết hợp nhiều ngôi kể (thứ nhất và thứ ba) đều tập trung chủ yếu trong hai tập Ngày đẹp trời để xem Kangaroo và Bóng ma ở Lexingtơn.
Là một phương diện của nghệ thuật tự sự, hình tượng người trần thuật trong truyện ngắn H. Murakami đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần tạo nên phong cách tự sự đặc sắc của nhà văn.
H.V.L
(SH294/08-13)
.............................................
1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004, đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr365.
2. Dẫn lại theo http://www.blog36.yahoo.com/nhanam
3. H. Murakami (2006), Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, Nxb. Đà Nẵng, tr16-17.
4. Haruki Murakami (2006), Đom đóm, Nxb. Đà Nẵng, tr52.
5. Haruki Murakami (2006), Đom đóm, Sđd, tr218.
6. Haruki Murakami (2007), Bóng ma ở Lexingtơn, Nxb. Đà Nẵng, tr216-217.
7. Haruki Murakami (2007), Người tivi, Nxb. Đà Nẵng, tr106-107.
8. Haruki Murakami (2006), Đom đóm, Nxb. Đà Nẵng, tr75-76.
9. Haruki Murakami (2006), Đom đóm, Sđd, tr111.
10. Haruki Murakami (2006), Sau cơn động đất, Nxb. Đà Nẵng, tr18.
11. Haruki Murakami (2006), Sau cơn động đất, Nxb. Đà Nẵng, tr57-58.
NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957-2007)
TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.
NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.
NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.
HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.
NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.
HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.
ĐOÀN TRỌNG HUY
Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.
NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.
THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.
TÙNG ĐIỂNLTS: “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.
PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.
PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.
PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.
TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.
TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).
HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).
VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.