Hình tượng người trần thuật trong truyện ngắn của Haruki Murakami - nhìn từ lý thuyết tự sự học

15:06 26/08/2013

HÀ VĂN LƯỠNG  

Trong thể loại tự sự, người trần thuật giữ một vai trò quan trọng, góp phần làm nên giá trị nghệ thuật tự sự của tác phẩm văn học.

Ảnh: internet

Ở thể loại truyện ngắn của Haruki Murakami, cùng với các yếu tố khác của trần thuật như điểm nhìn, giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật, hình tượng người trần thuật thể hiện một cách khá rõ và linh hoạt tài năng của nhà văn. Qua các tập truyện ngắn của H. Murakami đã được dịch ở Việt Nam, chúng tôi khảo sát hình tượng người trần thuật trên hai bình diện: trần thuật ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba.

Trong nền văn học Nhật Bản đương đại vài chục thập niên trở lại đây, Haruki Murakami nổi lên như một hiện tượng văn học đặc sắc, mới lạ được đông đảo bạn đọc trong nước và nhiều nước trên thế giới đón nhận với sự ngưỡng mộ, thán phục. Tài năng văn chương của ông không chỉ thể hiện trong các tiểu thuyết, mà còn ở thể loại truyện ngắn. Trong truyện ngắn của H. Murakami, bên cạnh các yếu tố khác làm nên giá trị tác phẩm như kết cấu, cốt truyện, không gian và thời gian nghệ thuật…, thì nghệ thuật trần thuật giữ một vị trí quan trọng. Bởi vì: “Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm chú ý của ý thức văn học từ hệ thống sự kiện “thắt nút”, “mở nút”, sang chủ thể thẩm mỹ của tác phẩm tự sự.”(1)

Trên cơ sở khảo sát truyện ngắn của H. Murakami trong các tuyển tập ngắn (Sau cơn động đất, Đom đóm, Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, Bóng ma ở Lexingtơn, Người tivi), chúng tôi chỉ ra hình tượng người trần thuật và khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà văn.

Trong thể loại tự sự, người trần thuật (hay người kể chuyện) là một khái niệm trung tâm của lý thuyết tự sự học. Người trần thuật trong tác phẩm là một người hư cấu hoặc có thật mà văn bản tự sự thể hiện thông qua hành vi và ngôn ngữ của anh ta tạo thành. Nhìn chung, người trần thuật thực hiện nhiệm vụ trần thuật, truyền đạt, chỉ dẫn, bình luận… những vấn đề được mô tả hoặc được kể trong tác phẩm. Thông thường, người ta chia người trần thuật trong tác phẩm tự sự thành hai dạng chủ yếu: người trần thuật lộ diện (ngôi thứ nhất) và người trần thuật ẩn tàng (ngôi thứ ba).

Ở các truyện ngắn của H. Murakami, hầu hết người trần thuật được đặt ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Mỗi truyện được kể ở một ngôi nhất định, nhưng cũng có truyện, tác giả đan xen giữa hai ngôi kể chuyện. Điều đó một mặt, khai thác sâu sắc hơn thế giới nội tâm nhân vật, mặt khác chính sự kết hợp nhiều ngôi kể chuyện góp phần làm phong phú thêm sự đa dạng của tác phẩm, khẳng định phong cách của H. Murakami.

Theo thống kê của chúng tôi, trong 63 truyện ngắn của H. Murakami được dịch ở Việt Nam và in trong 5 tuyển tập, thì có 43 truyện kể ở ngôi thứ nhất, 11 truyện kể ở ngôi thứ ba và 9 truyện được kể xen kẽ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Như vậy, kể chuyện ở ngôi thứ nhất chiếm số lượng nhiều hơn cả (trên 70%) so với các ngôi kể khác. Điều đó hoàn toàn đúng với phong cách nghệ thuật tự sự của truyện ngắn H. Murakami. Nhưng sự thay đổi người trần thuật trong các truyện của nhà văn không phải là một sự tùy tiện mà chính là do chủ ý của tác giả khi sáng tác và không hề làm mất đi tính khách quan, giá trị chân thực của tác phẩm.

Bảng thống kê các ngôi kể chuyện trong 5 tập truyện ngắn của H. Murakami
 

STT

Các tuyển tập

truyện ngắn

Số lượng

truyện

Kể ngôi

thứ nhất

Kể ngôi thứ

ba

Xen kẽ các

ngôi

1

Ngày đẹp trời để

xem Kangaroo

18 15 0 03
2

Bóng ma ở

Lexingtơn

14 10 01 03
3 Người tivi 14 07 05 02
4 Đom đóm 11 11 0 0
5 Sau cơn động đất 06 0 05 01

 

Tổng cộng

63

43

11

09

Mặt khác, trong các tập truyện, người trần thuật ở các ngôi cũng có số lượng khác nhau. Trên bảng thống kê cho chúng ta thấy, ở tập truyện ngắn Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, Haruki Murakami sử dụng chủ yếu là kể chuyện ở ngôi thứ nhất (15 truyện/18 truyện), không kể ở ngôi thứ ba mà có sự xen kẻ giữa hai ngôi trên, nhưng số lượng rất ít (3 truyện/18 truyện). Các tập truyện ngắn khác, tỷ lệ kể ở ngôi thứ nhất chiếm đa số, thậm chí tất cả đều kể ở ngôi thứ nhất (Đom đóm). Nhưng ở tập truyện Sau cơn động đất, thì chỉ kể ở ngôi thứ ba (5 truyện) hoặc xen kẽ ngôi thứ nhất và thứ ba (01 truyện). Sự thay đổi vị trí người trần thuật có số lượng khác nhau như trên trong các truyện, các tập truyện của Haruki Murakami là nhằm hướng đến thể hiện những vấn đề cụ thể mà nhà văn quan tâm và nằm trong hệ thống thủ pháp của tác giả. Qua khảo sát các tập truyện, chúng tôi sẽ chỉ ra hình tượng người kể truyện ở ngôi thứ nhất, thứ ba và các ngôi xen kẽ trong truyện ngắn H. Murakami.

1. Người trần thuật ngôi thứ nhất

Truyện kể ở ngôi thứ nhất là câu chuyện được kể lại do một người kể chuyện hiện diện (lộ diện) như một nhân vật trong truyện. Với hình thức này, người kể chuyện trực tiếp tham gia vào câu chuyện và hiện hữu trong thế giới mà nhân vật hoạt động. Chính ngôi kể chuyện này tạo cảm giác cho người đọc có độ tin cậy cao về những sự việc và con người được nói đến trong truyện. Mặt khác, việc nhân vật xưng “tôi” ở ngôi thứ nhất giúp người kể đi sâu khám phá thế giới nội tâm, những mối quan hệ, những diễn biến phức tạp của tâm lý nhân vật. Khi đề cập vấn đề người trần thuật trong truyện, trong một lần trả lời phóng vấn, H. Murakami nói rằng: “Khi viết ở ngôi thứ ba, tôi có cảm giác mình như Chúa trời. Mà tôi không thích làm Chúa trời. Tôi không thể biết tuốt, không thể viết về tất cả mọi thứ. Tôi chỉ là chính mình thôi. Tôi viết cái gì đó từ chính bản thân mình. Tôi không có ý nói tôi là nhân vật chính, nhưng tôi phải mường tượng được những gì nhân vật chính của mình chứng kiến và trải nghiệm. Viết giúp tôi khám phá tiềm thức của bản thân. Đó cũng chính là quá trình tôi kể chuyện. Đó cũng là điều hấp dẫn nhất mà tôi từng làm. Với tôi, kể một câu chuyện cũng giống như là những gì xẩy ra khi xuống phố. Tôi yêu đường phố nên mỗi khi xuống đường, tôi quan sát, nghe và cảm nhận mọi thứ. Khi làm như vậy, bạn sẽ cảm nhận sự thay đổi của thế giới theo một cách riêng”(2). Sự biến hóa, “nhập vai” của người kể chuyện ở ngôi thứ nhất xưng “tôi” trong các truyện ngắn của H. Murakami rất đa dạng. Trong truyện Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, nhân vật “tôi” trong vai vợ chồng đi đến sở thú để xem một chú Kangaroon mới ra đời: “Tất nhiên là vợ chồng tôi nhắm đến chuyện xem bé Kangaroo mới sinh. Ngoài ra, không nghĩ ra được con vật nào khác cần xem cả. Vợ chồng tôi từ một tháng trước đã đọc trên báo mà biết có bé Kangaroo mới sinh… Sáng 6 giờ, vợ chồng tôi thức giấc, mở màn cửa sổ ra thì xác định được tức thì hôm ấy là ngày đẹp trời, để đi xem Kangaroo…”(3). Nhân vật “tôi” kể lại câu chuyện mà vợ chồng anh ta đã trải qua, đó là ngày đẹp trời đi xem con Kangaroo bé nhỏ mới ra đời. Vì thế, những sự kiện và nhân vật được kể trong truyện đều được nhà văn đặt trong dấu ngoặc kép (tức câu chuyện đã xảy ra). Ở đây, lời dẫn của nhân vật “tôi” hiện diện trong truyện vừa là người dẫn dắt, giới thiệu diễn biến của truyện và cũng là người trực tiếp tham gia vào nội dung chuyện kể. Sự kết hợp linh hoạt việc kể chuyện này là sự đan xen giữa thời gian hiện tại và thời gian quá khứ cùng đồng hiện trong hiện tại. Đom đóm là câu chuyện về mối quan hệ chằng chịt, không phân định chập chờn như đom đóm của ba nhân vật “tôi, hắn và em”. Nhưng nhân vật “tôi” vẫn giữ vai trò chủ yếu. Những day dứt, niềm vui nỗi buồn đan xen tuổi yêu đương thời sinh viên đưa nhân vật “tôi” rơi vào cảm giác cô đơn, lạc lỏng trước những cảnh xa hoa, tráng lệ, những cảnh sa đọa của đời thường để rồi cố tìm về với những gì xưa cũ, thân quen, những giá trị truyền thống ngày xưa. Nhân vật tôi trong Đom đóm đã rất hối tiếc về những gì tươi đẹp đã qua: “Đom đóm đã bay mất rồi, nhưng quỹ tích ánh sáng của đom đóm vẫn còn lưu lại trong tôi rất lâu. Trong bóng tối dày đặc của mắt tôi đang nhắm lại, đom đóm nhỏ nhoi ấy lạc lỏng hoài như một mảnh linh hồn lạc mất lối về. Tôi vài lần thử rón rén vươn tay vào khoảng tối ấy, nhưng nhón tay tôi không chạm được gì. Đốm sáng nhỏ nhoi ấy lúc nào cũng cách một khoảng vô cùng ngắn trước đầu ngón tay tôi.”(4)

Như trên chúng tôi đã thống kê, tất cả 11 truyện trong tập Đom đóm đều được kể ở ngôi thứ nhất. Nhân vật “tôi” xuất hiện trong tất cả các truyện với vai trò chủ thể, người chứng kiến, người kể lại câu chuyện dưới các “vai” khác nhau. Đó là chuyện của “tôi và nàng” do tôi kể lại (Đốt nhà kho), nhân vật tôi và người lùn (Người lùn nhảy múa), nhân vật tôi và người em họ (Cây liễu mù và cô gái ngủ), chuyện nhân vật tôi đột nhập vào tiệm bánh mỳ (Tái tập kính tiệm bánh mỳ), chuyện của nhân vật tôi và cô em góa (Chuyện trong nhà)… Mở đầu truyện Chuyện trong nhà, nhà văn viết: “Không hiểu có phải là chuyện thường tình trên đời không, ngay từ buổi đầu, tôi đã không thể nào ưa được anh chàng vị hôn phu của em tôi. Rồi về sau, ít nhất tôi lại còn ôm thêm nghi vấn về việc em tôi quyết tâm kết hôn với chàng ta. Thật tình tôi đã thất vọng về việc ấy”(5). Và toàn bộ diễn biến của truyện được kể lại ở ngôi thứ nhất (nhân vật người anh).

Trong tập Bóng ma ở Lexingtơn, có 10/14 truyện được kể ở ngôi thứ nhất (Chuyện bà cô nghèo, Thông báo Kangaroo, Vườn cỏ buổi chiều cuối cùng, Con chó nhỏ của nàng trong lòng đất, Bóng ma ở Lexingtơn…). Sau khi kể hết câu chuyện mà mình đã từng chứng kiến, nhân vật “tôi” trong truyện nói: “Thỉnh thoảng, tôi lại nhớ đến những bóng ma ở Lexingtơn. Lũ ma bí hiểm đã mở tiệc huyên náo giữa khuya trong phòng khách của ngôi nhà xưa cũ của Casey… Tôi chưa hề kể chuyện này cho ai nghe. Nghĩ cho cùng thì hẳn là chuyện kỳ dị thiệt đấy, thế nhưng có lẽ vì cảm giác xa xôi vời vợi ấy mà tôi chẳng thấy gì là kỳ dị cả.”(6)

Ở tập truyện Người tivi, trong 14 truyện thì có 7 truyện kể ngôi thứ nhất, số còn lại ngôi thứ ba và xen kẻ hai ngôi. Nếu trong truyện Người tivi, người kể chuyện nhân danh “tôi” kể về người tivi, nhân vật tôi - tác giả trong Truyền thuyết dân gian của thời đại chúng tôi, nói về thời đại đất nước Nhật Bản những thập niên 60 của thế kỷ XX, người kể chuyện xưng “tôi” trong Giấc ngủ nói về chứng mất ngủ và mơ màng của anh ta thì truyện Quần cộc kiểu Đức, Người đàn ông đi tắcxi, Cho nữ hoàng đã mất, nhân vật từ kể về những kỷ niệm hoặc những chuyện, những việc liên quan đến mình trong quá khứ. Dường như đó là những hồi tưởng của nhân vật được kể lại ở ngôi thứ nhất. Trong truyện Giấc ngủ, mở đầu tác phẩm, tác giả viết: “Tôi không ngủ được đã đến ngày thứ 17 rồi… Trong một tháng ấy, không một lần nào tôi ngủ cho ra ngủ. Đêm đến, vào giường nằm, nghỉ là ngủ đi thôi. Và thế là, cứ như phản xạ mà tỉnh như sáo ngay. Cố gắng mấy cũng không ngủ được… Đầu óc tôi lúc nào cũng mơ hồ mù sương. Không phán định chính xác được sự ly, chất lượng hay cảm xúc của sự vật…”(7). Trong truyện Đốt nhà kho, nhân vật “tôi” đã được nhân vật “chàng” kể lại câu chuyện đốt nhà kho táo bạo và rất mạo hiểm. Hành động đó ám ảnh nhân vật “tôi” và anh ta tỏ ra hoài nghi: “Quả thật, có đôi lúc tôi nghĩ thay vì kiên trì chờ đợi chàng ta đốt nhà kho, chi bằng tự mình quẹt diêm đốt quách đi thì đỡ thấp thỏm hơn… Vấn đề thực tế là tôi không bao giờ đốt nhà kho. Đốt nhà kho là chàng ta kia mà. Có lẽ chàng đã đổi ý, định đốt nhà kho ở khu vực nào khác rồi. Hay có lẽ là bận bịu quá chưa tìm ra thì giờ để đi đốt nhà kho”(8). Ở Người lùn nhảy múa, nhân vật “tôi” kể về một giấc mộng kỳ bí vừa thực vừa hư về người lùn nhảy múa trong rừng: “Tôi đắm mình vào điệu nhảy ấy cảm thấy được rõ ràng chuyển động của tinh tú, những đợt lên xuống của thủy triều, những còn bay của gió… Trong túi tôi, quả cầu ánh sáng màu bàu bạc trắng lại bắn tung ra những tia sáng rực rỡ theo mỗi vòng xoay ấy”(9).

Như vậy, dù có sự “biến ảo” và linh hoạt trong ngôi kể thứ nhất, được phủ dưới một hình thức trực tiếp, hiện thực, hay dưới những yếu tố kỳ ảo, trong giấc mơ ly kỳ…, nhưng nhìn chung, sự việc và con người trong truyện ngắn của H. Murakami phần lớn đều được kể với nhân vật “tôi” hoặc vai “tôi”.

2. Người trần thuật ngôi thứ ba

Trong văn học cổ và văn học trung đại, chủ yếu là người trần thuật ở ngôi thứ ba. Nhưng đến thế kỷ XIX bắt đầu ở châu Âu và về sau lan rộng ra trong văn học thế giới cho đến nay, hình thức kể chuyện ngôi thứ nhất mới thịnh hành. Tuy thế, trong văn xuôi tự sự, bên cạnh trần thuật ngôi thứ nhất vẫn còn không ít nhà văn để cho nhân vật trần thuật ở ngôi thứ ba. Ngôi thứ ba cho phép người kể có thể kể về nhiều chuyện, nhiều người, cả những bí mật trong tâm hồn con người. Ngôi kể này mang tính khách quan và tự do nhất. Loại người trần thuật ẩn tàng (hay còn gọi theo ngôi thứ ba) cho phép nhà văn có cơ hội quan sát toàn diện cuộc sống cũng như số phận con người và phản ánh nó vào tác phẩm một cách cụ thể, khách quan. Với ngôi thứ ba, người thuật chuyện dường như là người “toàn thông” sắm vai “thực tế” để “phán xét” về mọi điều.

Trong truyện ngắn của H. Murakami, người trần thuật ở ngôi thứ ba chiếm số lượng không nhiều. Theo thống kê trên của chúng tôi thì trong số 63 truyện ở 5 tuyển tập truyện ngắn của nhà văn thì chỉ có 11 truyện được kể ở ngôi thứ ba, chiếm tỷ lệ khoảng 1/6. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan niệm của H. Murakami về viết truyện ngắn. Trong hai tập truyện ngắn Sau cơn động đất Người tivi, đặc biệt là Sau cơn động đất, H. Murakami chủ yếu để người trần thuật ở ngôi thứ ba. Nếu ở Người tivi chỉ có 5/14 truyện kể ở ngôi thứ ba, thì trong Sau cơn động đất có đến 5/6 truyện được trần thuật theo ngôi này. Ở các truyện trên, ngôi kể thứ ba rất linh hoạt, góp phần vào việc khai thác, mổ xẻ tâm lý nhân vật một cách sâu sắc, cụ thể. Người trần thuật dường như đứng độc lập, khách quan kể và miêu tả về mọi việc trong tác phẩm. Mô tả một anh nhân viên bán hàng và cuộc sống của anh ta, trong truyện Đĩa bay đáp xuống Kushiro, H. Murakami viết: “Người dong dỏng cao, rành ăn mặc và giỏi cư xử. Hồi còn độc thân, Komura có rất nhiều bạn gái… trong 5 năm nay sau ngày kết hôn, anh không ngủ với người đàn bà nào ngoài vợ. Không phải vì không có cơ hội; anh hoàn toàn không còn thấy hứng thú gì trong quan hệ trai gái qua đường nữa. Thay vào đó, anh muốn mau sớm về nhà cùng vợ thong thả dùng bữa, rồi chuyện trò trên ghế dài phòng khách, xong vào giường nghỉ ngơi, ân ái”(10). Với ngôi kể chuyện này, nhân vật được thể hiện không chỉ qua chân dung, cử chỉ mà cả cuộc sống nội tâm và sở thích của anh ta. Ở truyện Phong cảnh có bàn ủi, khi nói về cuộc gặp gỡ vào đêm khuya tại bờ biển, nhà văn tái hiện cảnh đốt lửa, uống rượu với một giọng văn khách quan, từ sự quan sát bên ngoài: “Junko tiếp lấy bình rượu, rót vào nắp bình, rồi nhắm rượu từng chút một. Cô nghiêm mặt dõi theo cảm giác đặc thù của giòng chất lỏng ấm ấp chảy từ thực quản xuống dạ dày… Đến phiên ông Miyake nhẹ nhàng uống một ngụm rồi Keisuke lại tu một ngụm lớn. Bình rượu sang tay từ người này sang người kia. Lửa nhóm không hấp tấp mà từ từ bốc lên thành ngọn lửa đỏ rực… Lửa ấy như chỉ để sưởi ấm lòng người”(11). Với ngôi kể thứ ba, H. Murakami thể hiện sự tinh tế trong cách mô tả các chi tiết và hành động của các nhân vật. Từ cách uống rượu đến ngọn lửa được thắp sáng trong đêm, thể hiện sự gắn bó giữa ba nhân vật và nói lên cuộc sống bình dị, chân chất của con người thấm đẫm tình đời, tình người. Ở một số truyện trong tập Sau cơn động đất (Thái Lan, Các con của thượng đế đầu nhảy múa, Bánh mật ong…), và tập Người tivi (Sân bóng chày, Buồn nôn 1979, Bên hồ bơi, Xác ướp…), nhà văn cũng tường thuật chủ yếu ở ngôi thứ ba.

Bên cạnh người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, H. Murakami đồng thời xen kẻ các ngôi kể một cách khá nhuần nhuyễn và linh hoạt. Trong các tập truyện ngắn của nhà văn, mặc dù chỉ có 9/63 truyện được tác giả kết hợp xen kẽ ngôi kể chuyện, nhưng cũng phần nào phản ánh tính chất đa dạng, phong phú trong nghệ thuật trần thuật. Hầu hết các truyện kết hợp nhiều ngôi kể (thứ nhất và thứ ba) đều tập trung chủ yếu trong hai tập Ngày đẹp trời để xem Kangaroo Bóng ma ở Lexingtơn.

Là một phương diện của nghệ thuật tự sự, hình tượng người trần thuật trong truyện ngắn H. Murakami đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần tạo nên phong cách tự sự đặc sắc của nhà văn.

H.V.L   
(SH294/08-13)


.............................................
1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004, đồng chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr365.
2. Dẫn lại theo http://www.blog36.yahoo.com/nhanam
3. H. Murakami (2006), Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, Nxb. Đà Nẵng, tr16-17.
4. Haruki Murakami (2006), Đom đóm, Nxb. Đà Nẵng, tr52.
5. Haruki Murakami (2006), Đom đóm, Sđd, tr218.
6. Haruki Murakami (2007), Bóng ma ở Lexingtơn, Nxb. Đà Nẵng, tr216-217.
7. Haruki Murakami (2007), Người tivi, Nxb. Đà Nẵng, tr106-107.
8. Haruki Murakami (2006), Đom đóm, Nxb. Đà Nẵng, tr75-76.
9. Haruki Murakami (2006), Đom đóm, Sđd, tr111.
10. Haruki Murakami (2006), Sau cơn động đất, Nxb. Đà Nẵng, tr18.
11. Haruki Murakami (2006), Sau cơn động đất, Nxb. Đà Nẵng, tr57-58.  






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.