Tình mẹ - Ảnh: binhson.net
Bàn về tính văn hóa trong văn học, DS Likhacher - Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Nga đã đưa một nhận định có tính đặc trung và khái quát "Văn hóa - đó là hồn thiêng của mỗi dân tộc, một quốc gia; là những gì làm nên bản sắc của dân tộc và biện minh cho sự tồn tại của dân tộc đó" (Dẫn theo: "Tạp chí Thế giới mới"). Chính vì thế, nghiên cứu văn học không thể tách rời vấn đề văn hóa. Sức sống và sự kỳ diệu của văn học được bắt đầu và làm nên từ cội nguồn văn hóa dân tộc. Thơ ca 1945 - 1975 nằm trong mạch huyết ngầm của cội nguồn văn hóa ấy. Vẻ đẹp và sức sống bền vững của nó được ươm mầm trên mảnh đất sâu thẳm của văn hóa dân tộc Việt Nam. Có thể nói, hình tượng người mẹ là một trong những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca Việt Nam (1945 - 1975). Hình tượng ấy vừa phản ánh khí thế hào hùng của dân tộc, vừa là biểu trưng của văn hóa truyền thống và hiện đại của nhân dân Việt Nam. Như một nỗi niềm ân nghĩa thiêng liêng, xưa cũng như nay, trong quan niệm về Bà mẹ - Tổ Quốc của người Việt Nam là hướng về cội nguồn, hướng về người mẹ đã sinh ra dân tộc này, con người của đất nước này. Trong "trường" thơ của Tố Hữu, từ "Từ ấy", "Việt Bắc", đến "Gió lộng" rồi "Ra trận" - hình tượng người mẹ là một trong nhưng biểu trưng đẹp nhất, sáng chói nhất, tượng trưng sâu sắc nhất về hình tượng Tổ Quốc. Người mẹ, một hình tượng có khả năng khái quát được tầm vóc, phẩm chất của Tổ Quốc Việt Nam. Nó, thầm lặng mà mãnh liệt, dịu dàng, thủy chung mà anh dũng, kiên trung, giản dị, đau thương, vất vả mà đôn hậu, hào hùng và tươi thắm vô ngần. Đấy là những con người: “ Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa”. Những bà mẹ, người chị ấy đã làm nên chân dung Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Hình tượng người Mẹ không chỉ xuất hiện trong thơ Tố Hữu, mà nó nảy sinh từ trong sâu thẳm của văn học dân gian, văn học cổ điển Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ qua thơ Tố Hữu, qua thơ ca cách mạng giai đoạn này, mới được thể hiện một cách rõ nét và tập trung nhất. Hình tượng người Mẹ đã xuyên suốt trong thơ Tố Hữu và tỏa sáng như chất lân tinh. Từ Bà má Hậu Giang (Từ ấy - 1937- 1946), Bà Bủ, Bà Bầm (Việt Bắc- 1946- 1954), Mẹ Tơm (Gió lộng- 1954- 1961), Mẹ Suốt (Ra trận- 1962- 1974) là những hình ảnh tiêu biểu kết tinh thành chân dung Mẹ- Tổ Quốc nói trên. Xuất phát từ những người mẹ cụ thể, Tố Hữu đã khái quát nên Người mẹ Tổ Quốc. Hình tượng Tổ Quốc được Tố Hữu lồng trong hình ảnh người Mẹ một cách thấu suốt và sáng rõ: “ Việt Nam, ôi Tổ Quốc thương yêu/ Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều/ Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng/ Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng... Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời. Tác giả đã khắc họa một hình tượng bà mẹ khổ đau gắn liền với đức hy sinh vô bờ bến, một đức hy sinh thầm lặng, cao cả, thủy chung và thiêng liêng. Đấy là má Hậu Giang thầm lặng trong cõi rừng U Minh để nuôi giấu cán bộ, nuôi giấu cách mạng: Rừng một dải U Minh sớm tối/ Má lom khom đi lượm củi khô/ Ngày đêm củi chất bên lò/ Ai hay má cất củi khô làm gì? Nụ cười thầm lặng, nước mắt thầm lặng, cái chết thầm lặng của bà má Hậu Giang là nét phẩm chất chung của các bà mẹ Việt Nam, phụ nữ Việt Nam. Với bài “ Bầm ơi” bằng việc tìm sự đối xứng và tương phản, Tố Hữu đã khắc họa một người mẹ lam lũ, vất vả, thầm lặng quên nỗi đau của mình để hướng về con người ngoài mặt trận, hướng về Tổ Quốc: Con đi trăm núi ngàn khe/ Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng Bầm/ Con đi đánh giặc mười năm/ Chưa bằng khó nhọc đời Bầm sáu mươi. Ở đây có nỗi xót xa, cay đắng, có nỗi nhọc nhằn, tần tảo của người Mẹ, người phụ nữ trong ca dao, dân ca, trong thơ các nhà thơ cổ điển. Những con người quanh năm “ gửi lưng cho trời, gửi mặt cho đất”, lặn lội “ mom sông” để “ nuôi đủ năm con với một chồng”: “ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng / Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô (Việt Bắc - 1954) Có nỗi truân chuyên, cay đắng của cuộc đời Kiều: Hà ơi tiếng Mẹ ru nhè nhẹ/ Cay đắng trăn năm nỗi đoạn trường (Quê mẹ- Gió lộng). Tìm về truyền thống - cội nguồn của dân tộc. Tố Hữu muốn thể hiện một quan niệm nghệ thuật của mình, hình ảnh bà mẹ nghèo chính là hình ảnh “ đất nước nghèo” với áo vải bạc màu. Phẩm chất ấy, thể hiện một lý tưởng thẩm mỹ của tác giả, đấy là sự trong sạch, quý giá là vẻ đẹp trong đau khổ, trong kiêu hãnh, tự hào. Ý niệm đó đã trở thành phổ quát trong thơ giai đoạn này: Trần Vàng Sao yêu đất nước qua tấm áo rách, nỗi xót xa của mẹ: “ Tôi yêu đất nước này xót xa/ Tôi yêu mẹ tôi áo rách”. Chế Lan Viên cảm nhận qua nước mắt, qua mảnh đất khô cằn: Vâng, tôi yêu những nơi đá cộc, cây cằn/ Tổ quốc như bà mẹ nghèo thì thầm cùng tôi qua nước mắt. Một nhà nghiên cứu từng cho rằng: Trong dòng chảy có nước của cội nguồn thì dòng chảy đó sẽ không bao giờ ngưng đọng, con người Việt Nam từ bao đời nay vốn tha thiết hướng về cội nguồn quê hương, đất nước, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Chính vì thế, mô tả cài nghèo khổ vất vả, giản dị trên, Tố Hữu cũng như các nhà thơ khác muốn làm nổi bật lên một nét phẩm chất quý giá của con người Việt Nam: Sự vĩ đại được kết tinh từ trong đau khổ và nước mắt. Con người Việt Nam đã: “ Từ trong máu lửa, rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Chính họ đã làm nên tầm vóc lịch sử Việt Nam “ dáng đứng Việt Nam”. Vẻ đẹp và niềm kiêu hãnh của người mẹ Việt Nam anh hùng trong thơ Tố Hữu, đấy là tinh thần bất khuất, kiên trung. Con người ý chí khí phách đạp mọi trở ngại để vươn đến đạo lý truyền thống, đến với các giá trị vĩnh cửu và thiêng liêng: “ Sức đâu như ngọn sóng trào/ Má già đứng dậy ngó vào thằng Tây/ Má thét lớn: Tụi bây đồ chó/ Cướp nước tao, cắt cổ dân tao. (Bà má Hậu Giang). Hình ảnh O du kích nhỏ đã làm nên dáng đứng, tầm vóc, sức mạnh của dân tộc: O du kích nhỏ giương cao súng/ Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu/ Ra thế to gan hơn béo bụng/ Anh hùng đâu cứ phải mày râu” (Tấm ảnh) Biểu tượng cao đẹp, vĩ đại, hào hùng nhất, đấy là hình ảnh chị Lý, người con gái anh hùng Việt Nam. Bằng một cảm quan lãng mạn cách mạng, một tấm lòng tôn kính, xót thương vô hạn, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh người con gái Việt Nam bất khuất, kiên trung: Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung/ Không giết được em người con gái anh hùng/ Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại/ Còn một giọt máu tươi còn đập mãi/ Không phải cho em, cho lẽ phải trên đời/ Cho quê hương em. Cho cả loài người” (Người con gái Việt Nam). Tính chất sử thi, siêu nhiên qua cách cảm nhận và thể hiện của tác giả càng làm tăng thêm ý chí bất khuất, vẻ đẹo kỳ vĩ, thiêng liêng và huyền bí của người con gái Việt Nam anh hùng. Mẹ Suốt, với hình ảnh “ Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung/ Gió lay như sóng biển tung trắng bờ” là biểu trưng sâu sắc cho ý chí kiên trung, quật khởi của dân tộc, là khí thiêng hun đúc được truyền đời. Điều này đúng với một nhận xét có tính khái quát: “ Nhân dân ta có lòng nồng nàn yêu nước, đó là tinh thần quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay. Mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy lại kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nó nhấn chìm tất cả lũ cướp nước và lũ bán nước (Hồ Chủ Tịch) Những người mẹ Việt Nam anh hùng: như bà má Hậu Giang, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt... là những biểu trưng văn hóa kết tinh từ truyền thống sâu thẳm của dân tộc Việt Nam. Đấy là những con người biết làm chủ lịch sử xã hội, biết hy sinh bản thân mình, hướng đến chân lý của thời đại để hòa nhập lẽ sống cộng đồng với lẽ sống nhân loại. Một nét biểu trưng văn hóa qua hình tượng người mẹ Việt Nam trong thơ Tố Hữu, đấy là quan niệm về con người bất tử, con người thóat thân vào vĩnh cửu. Điều này xuất phát từ tâm thức của văn hóa dân gian. Người Việt Nam cho rằng: Những người anh hùng của dân tộc là hồn thiêng của Tổ quốc. Họ sống muôn đời với đất nước, núi sông của nhân dân Việt Nam: Một dòng máu đỏ lên trời. Má ơi, con đã nghe lời má kêu/ Nước non muôn quý ngàn yêu/ Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang (Bà má Hậu Giang). Chị Lý đã trở thành bất tử, thành lẽ sống của dân tộc: Cả nước cho em cho em tất cả / Máu tiếp máu cho lại hồng đôi má/ Cho mái tóc em xanh lại ngày xuân/ Cho thịt da em lại nở trắng ngần” (Người con gái Việt Nam) Lâm Thị Mỹ Dạ đã khắc họa hình ảnh người con gái hy sinh với nụ cười không tắt, với làn da tỏa sáng, thoát thành làn mây trắng tinh khôi: Như khoảng trời nằm yên trong đất/ Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng/ Những vì sao ngời chói lung linh/ Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong/ Đã hóa thành những làn mây trắng” (Khoảng trời hố bom) Những biểu hiện về sự hóa thân của người mẹ, người phụ nữ anh hùng vào non sông, đất nước là sự tiếp nối quan niệm truyền thống về con người thiên nhiên, con người vũ trụ của nhân dân ta. Niềm thiêng liêng cao cả của họ đã trở thành biểu trưng văn hóa của dân tộc, những di tích lịch sử muôn đời của non sông, đất nước. Họ trở thành một lẽ sống bất diệt của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Hình tượng người mẹ Việt Nam là nét đẹp của lòng vị tha nhân hậu, thủy chung, là sự biểu hiện sức sống mãnh liệt, ý chí quật khởi của con người Việt Nam. Sự miêu tả, cảm nhận về hình ảnh bà mẹ qua thơ Tố Hữu xuất phát từ cội nguồn sâu thẳm của truyền thống văn hóa dân tộc, từ nòi giống Lạc Hồng của mẹ Âu Cơ và Lạc Long Quân. Đấy là phẩm chất đẹp đẽ được tinh lọc từ dòng sữa mẹ của hôm qua và hôm nay. Trở về hòa nhập trong tình biển mẹ, mạch ngầm kia được nuôi dưỡng trong vị mặn ân tình đầy chất trí tuệ và ngời ánh lân tinh. Qua hình tượng người Mẹ, Tố Hữu và các nhà thơ 1945- 1975 đã khắc họa thêm một nét đẹp truyền thống của tâm hồn Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam Huế, 8-3- 1996- 8- 3- 1997 T.H.S (133/03-2000) |
HOÀNG TẤT THẮNG 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.
NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.
PHẠM PHÚ PHONG Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau. Nguyễn Đình Thi
PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)
NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.
HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.
NGUYỄN HUỆ CHI Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.
ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.
THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.
TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)
MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.
HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)
VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.
PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá
CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy. (R. Barthes, Độ không của lối viết)
TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/ dĩ thừa/ hoàng hạc khứThử địa/ không dư/ Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/ bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…
PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.