Hình tượng người mẹ - một biểu trưng của văn hóa dân tộc Việt Nam

09:54 08/03/2010
TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

Tình mẹ - Ảnh: binhson.net

Bàn về tính văn hóa trong văn học, DS Likhacher - Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Nga đã đưa một nhận định có tính đặc trung và khái quát "Văn hóa - đó là hồn thiêng của mỗi dân tộc, một quốc gia; là những gì làm nên bản sắc của dân tộc và biện minh cho sự tồn tại của dân tộc đó" (Dẫn theo: "Tạp chí Thế giới mới").

Chính vì thế, nghiên cứu văn học không thể tách rời vấn đề văn hóa. Sức sống và sự kỳ diệu của văn học được bắt đầu và làm nên từ cội nguồn văn hóa dân tộc. Thơ ca 1945 - 1975 nằm trong mạch huyết ngầm của cội nguồn văn hóa ấy. Vẻ đẹp và sức sống bền vững của nó được ươm mầm trên mảnh đất sâu thẳm của văn hóa dân tộc Việt Nam.

Có thể nói, hình tượng người mẹ là một trong những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca Việt Nam (1945 - 1975). Hình tượng ấy vừa phản ánh khí thế hào hùng của dân tộc, vừa là biểu trưng của văn hóa truyền thống và hiện đại của nhân dân Việt Nam. Như một nỗi niềm ân nghĩa thiêng liêng, xưa cũng như nay, trong quan niệm về Bà mẹ - Tổ Quốc của người Việt Nam là hướng về cội nguồn, hướng về người mẹ đã sinh ra dân tộc này, con người của đất nước này.

Trong "trường" thơ của Tố Hữu, từ "Từ ấy", "Việt Bắc", đến "Gió lộng" rồi "Ra trận" - hình tượng người mẹ là một trong nhưng biểu trưng đẹp nhất, sáng chói nhất, tượng trưng sâu sắc nhất về hình tượng Tổ Quốc. Người mẹ, một hình tượng có khả năng khái quát được tầm vóc, phẩm chất của Tổ Quốc Việt Nam. Nó, thầm lặng mà mãnh liệt, dịu dàng, thủy chung mà anh dũng, kiên trung, giản dị, đau thương, vất vả mà đôn hậu, hào hùng và tươi thắm vô ngần. Đấy là những con người: “ Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa”. Những bà mẹ, người chị ấy đã làm nên chân dung Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam.

Hình tượng người Mẹ không chỉ xuất hiện trong thơ Tố Hữu, mà nó nảy sinh từ trong sâu thẳm của văn học dân gian, văn học cổ điển Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ qua thơ Tố Hữu, qua thơ ca cách mạng giai đoạn này, mới được thể hiện một cách rõ nét và tập trung nhất. Hình tượng người Mẹ đã xuyên suốt trong thơ Tố Hữu và tỏa sáng như chất lân tinh. Từ Bà má Hậu Giang  (Từ ấy - 1937- 1946), Bà Bủ, Bà Bầm (Việt Bắc- 1946- 1954), Mẹ Tơm (Gió lộng- 1954- 1961), Mẹ Suốt (Ra trận- 1962- 1974) là những hình ảnh tiêu biểu kết tinh thành chân dung Mẹ- Tổ Quốc nói trên.

Xuất phát từ những người mẹ cụ thể, Tố Hữu đã khái quát nên Người mẹ Tổ Quốc. Hình tượng Tổ Quốc được Tố Hữu lồng trong hình ảnh người Mẹ một cách thấu suốt và sáng rõ: “ Việt Nam, ôi Tổ Quốc thương yêu/ Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều/ Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng/ Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng... Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời.

Tác giả đã khắc họa một hình tượng bà mẹ khổ đau gắn liền với đức hy sinh vô bờ bến, một đức hy sinh thầm lặng, cao cả, thủy chung và thiêng liêng. Đấy là má Hậu Giang thầm lặng trong cõi rừng U Minh để nuôi giấu cán bộ, nuôi giấu cách mạng:

Rừng một dải U Minh sớm tối/ Má lom khom đi lượm củi khô/ Ngày đêm củi chất bên lò/ Ai hay má cất củi khô làm gì?

Nụ cười thầm lặng, nước mắt thầm lặng, cái chết thầm lặng của bà má Hậu Giang là nét phẩm chất chung của các bà mẹ Việt Nam, phụ nữ Việt Nam. Với bài “ Bầm ơi” bằng việc tìm sự đối xứng và tương phản, Tố Hữu đã khắc họa một người mẹ lam lũ, vất vả, thầm lặng quên nỗi đau của mình để hướng về con người ngoài mặt trận, hướng về Tổ Quốc: Con đi trăm núi ngàn khe/ Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng Bầm/ Con đi đánh giặc mười năm/ Chưa bằng khó nhọc đời Bầm sáu mươi.

Ở đây có nỗi xót xa, cay đắng, có nỗi nhọc nhằn, tần tảo của người Mẹ, người phụ nữ trong ca dao, dân ca, trong thơ các nhà thơ cổ điển. Những con người quanh năm “ gửi lưng cho trời, gửi mặt cho đất”, lặn lội “ mom sông” để “ nuôi đủ năm con với một chồng”: “ Nhớ người mẹ nắng cháy lưng / Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô (Việt Bắc - 1954)

Có nỗi truân chuyên, cay đắng của cuộc đời Kiều: Hà ơi tiếng Mẹ ru nhè nhẹ/ Cay đắng trăn năm nỗi đoạn trường (Quê mẹ- Gió lộng).

Tìm về truyền thống - cội nguồn của dân tộc. Tố Hữu muốn thể hiện một quan niệm nghệ thuật của mình, hình ảnh bà mẹ nghèo chính là hình ảnh “ đất nước nghèo” với áo vải bạc màu. Phẩm chất ấy, thể hiện một lý tưởng thẩm mỹ của tác giả, đấy là sự trong sạch, quý giá là vẻ đẹp trong đau khổ, trong kiêu hãnh, tự hào. Ý niệm đó đã trở thành phổ quát trong thơ giai đoạn này: Trần Vàng Sao yêu đất nước qua tấm áo rách, nỗi xót xa của mẹ: “ Tôi yêu đất nước này xót xa/ Tôi yêu mẹ tôi áo rách”. Chế Lan Viên cảm nhận qua nước mắt, qua mảnh đất khô cằn: Vâng, tôi yêu những nơi đá cộc, cây cằn/ Tổ quốc như bà mẹ nghèo thì thầm cùng tôi qua nước mắt.

Một nhà nghiên cứu từng cho rằng: Trong dòng chảy có nước của cội nguồn thì dòng chảy đó sẽ không bao giờ ngưng đọng, con người Việt Nam từ bao đời nay vốn tha thiết hướng về cội nguồn quê hương, đất nước, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Chính vì thế, mô tả cài nghèo khổ vất vả, giản dị trên, Tố Hữu cũng như các nhà thơ khác muốn làm nổi bật lên một nét phẩm chất quý giá của con người Việt Nam: Sự vĩ đại được kết tinh từ trong đau khổ và nước mắt. Con người Việt Nam đã: “ Từ trong máu lửa, rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Chính họ đã làm nên tầm vóc lịch sử Việt Nam “ dáng đứng Việt Nam”.

Vẻ đẹp và niềm kiêu hãnh của người mẹ Việt Nam anh hùng trong thơ Tố Hữu, đấy là tinh thần bất khuất, kiên trung. Con người ý chí khí phách đạp mọi trở ngại để vươn đến đạo lý truyền thống, đến với các giá trị vĩnh cửu và thiêng liêng: “ Sức đâu như ngọn sóng trào/ Má già đứng dậy ngó vào thằng Tây/ Má thét lớn: Tụi bây đồ chó/ Cướp nước tao, cắt cổ dân tao. (Bà má Hậu Giang).

Hình ảnh O du kích nhỏ đã làm nên dáng đứng, tầm vóc, sức mạnh của dân tộc: O du kích nhỏ giương cao súng/ Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu/ Ra thế to gan hơn béo bụng/ Anh hùng đâu cứ phải mày râu” (Tấm ảnh)

Biểu tượng cao đẹp, vĩ đại, hào hùng nhất, đấy là hình ảnh chị Lý, người con gái anh hùng Việt Nam. Bằng một cảm quan lãng mạn cách mạng, một tấm lòng tôn kính, xót thương vô hạn, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh người con gái Việt Nam bất khuất, kiên trung: Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung/ Không giết được em người con gái anh hùng/ Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại/ Còn một giọt máu tươi còn đập mãi/ Không phải cho em, cho lẽ phải trên đời/ Cho quê hương em. Cho cả loài người” (Người con gái Việt Nam). Tính chất sử thi, siêu nhiên qua cách cảm nhận và thể hiện của tác giả càng làm tăng thêm ý chí bất khuất, vẻ đẹo kỳ vĩ, thiêng liêng và huyền bí của người con gái Việt Nam anh hùng.

Mẹ Suốt, với hình ảnh “ Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung/ Gió lay như sóng biển tung trắng bờ” là biểu trưng sâu sắc cho ý chí kiên trung, quật khởi của dân tộc, là khí thiêng hun đúc được truyền đời. Điều này đúng với một nhận xét có tính khái quát: “ Nhân dân ta có lòng nồng nàn yêu nước, đó là tinh thần quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay. Mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy lại kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nó nhấn chìm tất cả lũ cướp nước và lũ bán nước (Hồ Chủ Tịch)

Những người mẹ Việt Nam anh hùng: như bà má Hậu Giang, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt... là những biểu trưng văn hóa kết tinh từ truyền thống sâu thẳm của dân tộc Việt Nam. Đấy là những con người biết làm chủ lịch sử xã hội, biết hy sinh bản thân mình, hướng đến chân lý của thời đại để hòa nhập lẽ sống cộng đồng với lẽ sống nhân loại.

Một nét biểu trưng văn hóa qua hình tượng người mẹ Việt Nam trong thơ Tố Hữu, đấy là quan niệm về con người bất tử, con người thóat thân vào vĩnh cửu. Điều này xuất phát từ tâm thức của văn hóa dân gian. Người Việt Nam cho rằng: Những người anh hùng của dân tộc là hồn thiêng của Tổ quốc. Họ sống muôn đời với đất nước, núi sông của nhân dân Việt Nam: Một dòng máu đỏ lên trời. Má ơi, con đã nghe lời má kêu/ Nước non muôn quý ngàn yêu/ Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang (Bà má Hậu Giang). Chị Lý đã trở thành bất tử, thành lẽ sống của dân tộc: Cả nước cho em cho em tất cả / Máu tiếp máu cho lại hồng đôi má/ Cho mái tóc em xanh lại ngày xuân/ Cho thịt da em lại nở trắng ngần” (Người con gái Việt Nam) Lâm Thị Mỹ Dạ đã khắc họa hình ảnh người con gái hy sinh với nụ cười không tắt, với làn da tỏa sáng, thoát thành làn mây trắng tinh khôi: Như khoảng trời nằm yên trong đất/ Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng/ Những vì sao ngời chói lung linh/ Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong/ Đã hóa thành những làn mây trắng” (Khoảng trời hố bom)

Những biểu hiện về sự hóa thân của người mẹ, người phụ nữ anh hùng vào non sông, đất nước là sự tiếp nối quan niệm truyền thống về con người thiên nhiên, con người vũ trụ của nhân dân ta. Niềm thiêng liêng cao cả của họ đã trở thành biểu trưng văn hóa của dân tộc, những di tích lịch sử muôn đời của non sông, đất nước. Họ trở thành một lẽ sống bất diệt của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Hình tượng người mẹ Việt Nam là nét đẹp của lòng vị tha nhân hậu, thủy chung, là sự biểu hiện sức sống mãnh liệt, ý chí quật khởi của con người Việt Nam. Sự miêu tả, cảm nhận về hình ảnh bà mẹ qua thơ Tố Hữu xuất phát từ cội nguồn sâu thẳm của truyền thống văn hóa dân tộc, từ nòi giống Lạc Hồng của mẹ Âu Cơ và Lạc Long Quân. Đấy là phẩm chất đẹp đẽ được tinh lọc từ dòng sữa mẹ của hôm qua và hôm nay. Trở về hòa nhập trong tình biển mẹ, mạch ngầm kia được nuôi dưỡng trong vị mặn ân tình đầy chất trí tuệ và ngời ánh lân tinh.

Qua hình tượng người Mẹ, Tố Hữu và các nhà thơ 1945- 1975 đã khắc họa thêm một nét đẹp truyền thống của tâm hồn Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam

Huế, 8-3- 1996- 8- 3- 1997
T.H.S
(133/03-2000)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.