Từ lâu có một cuốn Lục Vân Tiên mà các nhà nghiên cứu ở miền Nam đánh giá là bản Nôm cổ nhất nhưng bị thất lạc. Gần đây, trong một lần viếng chùa cổ Long An, tình cờ cụ Nguyễn Quảng Tuân đã phát hiện, mang về hiệu chỉnh và công bố. Cũng với tình yêu vốn quý cổ truyền dân tộc, ông đã lặn lội khắp nơi trong và ngoài nước để sưu tầm, nghiên cứu, công bố nhiều tư liệu giá trị, đặc biệt là hàng loạt bản cổ khác nhau về Truyện Kiều.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân với tủ sách cổ quý hiếm thuộc hàng bậc nhất Việt Nam
Mê ca trù, yêu nàng Kiều
Tết Ất Mùi 2015, nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân đã sang tuổi 91 nhưng trông ông vẫn còn xuân lắm. Sinh ra ở đất Bắc nhưng ông gắn cả đời mình với Sài Gòn ở phương Nam. Văn hóa xứ Kinh Bắc quê hương, nhất là nghệ thuật ca trù, đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nguyễn Quảng Tuân từ thuở còn ấu thơ. Dù sau này ông về Hà Nội học Trường Bưởi, tiếp thu kiến thức Tây học từ nhiều nguồn khác nhau, rồi vào Sài Gòn dạy học, nhưng tình yêu đối với ca trù vẫn không vơi trong ông.
Bậc lão thành Nguyễn Quảng Tuân nói rằng, ca trù là thú chơi tao nhã từ xưa của cổ nhân, không dành cho đám đông mà chỉ thu hẹp trong phạm vi một nhóm nhỏ, có tri thức. Điều quan trọng là người nghe phải tuyệt đối giữ im lặng để cùng thưởng thức từ lời thơ, giọng hát tới nhịp phách, cung đàn. Vì lẽ đó, ông còn sáng tác và cổ động cho ca trù với hy vọng góp phần giữ gìn và phát huy một thể loại dân ca trí thức và kinh điển của tổ tiên đang dần bị mai một.
Ngoài ca trù, Nguyễn Quảng Tuân cũng hết sức say mê sách cổ, đặc biệt là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Tất nhiên, Truyện Kiều thì nhiều người từ trong đến ngoài nước yêu thích, nhưng say mê kiểu như ông Nguyễn Quảng Tuân quả là khác thường. Chính vì yêu áng thơ bất hủ này mà suốt đời ông bỏ công lặn lội từ Á sang Âu - Mỹ truy tìm những văn bản cổ nhất để mày mò nghiên cứu, phục dựng, phiên âm, hiệu đính, chú giải, viết lại chữ Nôm bằng tay cả tác phẩm.
Cũng vì mê Kiều mà ông liên tục bỏ tiền túi làm sách, xuất bản nhiều công trình với mong muốn mang tới cho bạn đọc bản Truyện Kiều hoàn chỉnh, xác thực nhất như: Chữ nghĩa Truyện Kiều, Tập Kiều vịnh Kiều, Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, Truyện Kiều - bản Nôm cổ nhất 1866, Truyện Kiều - bản Kinh đời Tự Đức, Truyện Kiều - bản Nôm cổ nhất - Liễu Văn Đường 1871,… Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu dĩ nhiên là không thể tránh được sai sót hoặc những nhận định chủ quan, tuy nhiên niềm say mê vốn cổ của cha ông và công phu truy tìm của Nguyễn Quảng Tuân là đáng trân trọng.
Đánh giá cao công lao của nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân đối với việc bảo tồn Truyện Kiều, Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm của Mỹ đã quyết định trao Giải thưởng Balaban Award 2010 cho ông.
Cái duyên tìm sách và tình bạn văn chương
Nguyễn Quảng Tuân xuất thân là nhà giáo. Ông có một cuộc sống thanh đạm và nghiêm cẩn. Vì mê sách cổ, thích nghiên cứu chữ nghĩa mà ông từng gặp hệ lụy. Nhưng ông không nản chí, vì đối với ông bể học thật vô cùng và chuyện đúng sai là lẽ thường tình. Trò chuyện với chúng tôi, bậc lão thành tâm sự: “Đời tôi sống vui vì sách. Nhờ trời đến tuổi này tôi vẫn mạnh khỏe, minh mẫn để tiếp tục đọc, học và nghiên cứu sách”. Rồi ông đưa chúng tôi đến từng tủ sách, mở cửa, giới thiệu say sưa những cuốn sách cổ mà ông tâm đắc nhất. Ông còn lật từng trang sách, giải thích về sự quý giá của sách lẫn công phu của người làm sách, nhất là những bản khắc in Truyện Kiều bằng chữ Nôm được ông mang về từ Pháp, từ Mỹ. Nhìn ông, chúng tôi cảm thấy sách cổ như đang được “gọi hồn” về trong tình yêu của ông.
Mời chúng tôi uống trà giữa tiết lạnh đầu xuân, học giả Nguyễn Quảng Tuân cho biết ông hay đi lễ chùa cho tâm hồn thư thái, giao lưu trò chuyện với các nhà sư. Một lần xuống viếng chùa Kim Cang ở Long An, ông thấy có tủ sách xin được xem, tình cờ phát hiện tác phẩm Lục Vân Tiên bản Nôm của thi hào Nguyễn Đình Chiểu rất quý hiếm. Đây chính là cuốn Lục Vân Tiên mà các nhà nghiên cứu ở miền Nam từng đánh giá là bản Nôm cổ nhất nhưng tìm mãi không ra. Quá đỗi vui mừng, ông xin thầy trụ trì cho mượn về nghiên cứu. Sư thầy bảo: “Bác cần thì cứ lấy”. Ông mang sách về phiên âm, chú giải, xuất bản năm 2008.
Rồi một lần khác ông xuống Tân Bình chơi ở nhà Tiến sĩ Phan Lạc Tuyên, một trí thức nổi tiếng từng tham gia đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn trước đây. Nhìn lên, ông chợt thấy có một giá sách cổ treo trên bàn thờ. Ông tò mò muốn xem, nhưng chủ nhà không cho, bảo sách cổ chỉ để thờ chứ không ai được đụng vào. Một thời gian sau, ông Phan Lạc Tuyên đến thăm nhà Nguyễn Quảng Tuân, thấy bộ ấm trà đẹp do chủ nhà mang từ Nhật về, thích quá cầm ngắm nghía mãi.
Như nhớ ra điều gì, ông Tuyên đề nghị ông Tuân đổi bộ ấm trà Nhật cho mấy quyển sách cổ. Mừng quá, ông Tuân đồng ý ngay. Nhờ đó, ông Tuân mới thoát nỗi ám ảnh về giá sách cổ trên bàn thờ nhà ông Tuyên và được sở hữu mấy cuốn sách rất quý trên cả trăm năm. Tình bạn giữa hai nhà trí thức càng khắng khít cho tới khi ông Tuân ngậm ngùi vĩnh biệt ông Tuyên cách đây hơn 2 năm.
Say mê sách cổ, Nguyễn Quảng Tuân cũng rất yêu quý, trân trọng tình bạn. Nhân dịp mừng xuân Canh Thìn năm 2000, Giáo sư Trần Thanh Đạm có viết tặng ông hai câu thơ:
“Dẫu qua thời thế cơn mưa gió
Vẫn giữ tâm hồn mảnh tuyết sương”
Cuộc đời Nguyễn Quảng Tuân không ít thăng trầm nhưng ông vẫn luôn “giữ tâm hồn mảnh tuyết sương”. Khi ông được vinh danh với Giải thưởng Balaban Award, chính John Balaban - nhà thơ, nhà ngôn ngữ học, giáo sư Anh văn Đại học North Carolina Stale, đồng thời là người sáng lập và từng giữ chức chủ tịch Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm, đã làm tặng Nguyễn Quảng Tuân một bài thơ, do Lê Phạm Lê chuyển ngữ, trong đó có đoạn sâu sắc và cảm động:
“Mê mải một mình trên bước đi
Miệt mài nghiên bút mãi tư duy
Trên đường nếu gặp người tri kỷ,
Chào hỏi nhau như bạn cố tri”.
Nguồn: Phan Phú Yên - SGGP
NGUYỄN THẾPhước Tích là một trong những ngôi làng được hình thành từ thế kỷ XV thuộc xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ban đầu, vào thời Lê sơ làng có tên là Dõng Quyết, sau đổi thành Phước Giang, đến thời Tây Sơn làng có tên gọi là Hoàng Giang, đến triều các vua Nguyễn, làng được đặt tên là Phước Tích cho đến nay.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNHuế là một trung tâm văn hóa Việt Nam, các di tích thuộc Cố đô Huế và Nhã nhạc Cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là hai di sản văn hóa của nhân loại. Điều đó không có gì phải bàn luận nữa. Điều mà chúng ta quan tâm, ngoài cái phần vật chất đó, ngoài Nhã nhạc cung đình Huế thì cái hồn, cái phần phi vật chất của trung tâm văn hóa Huế là cái gì, hiện ở đâu, làm thế nào để có thể tiếp cận và toàn cầu có thể sử dụng phát huy được?
NGUYỄN HỮU THÔNG Biểu tượng khu trung tâm trong quan niệm của nhiều tộc người, phần lớn đều liên quan đến các mối thông linh với thế lực siêu nhiên. Hệ đức tin biểu thị từ sự chọn lựa địa điểm thiết lập vùng trung tâm của người xưa, cũng mang mô hình gốc của thần thánh. Sự chọn lựa này có ý nghĩa quyết định và là công việc đầu tiên trong quá trình thiết lập một vùng cư trú.
NGUYỄN VĂN CAOLTS: “Thành phố và phát triển địa phương” là hai chủ đề tại Đại hội đồng lần thứ 27 của Hiệp hội Quốc tế các Thị trưởng nói tiếng Pháp (AIMF) tổ chức tại Huế từ ngày 24 đến ngày 26-10-2007, hội tụ trên 200 đại biểu là thị trưởng của các thành phố thành viên thuộc 46 nước trên thế giới. Đây là đại hội đồng lần đầu tiên tổ chức tại Việt và là lần thứ 2 diễn ra tại khu vực Đông Á (năm 2003 đã tổ chức tại Pnômpênh, Campuchia).
THÁI DOÃN LONGVà tôi cũng muốn mượn ý châm ngôn về Sêda để nói rằng cái gì thuộc về Quang Trung hãy trả lại cho Hoàng đế Quang Trung.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN Như chúng ta đã biết: Hoàng Cung, Bảo tàng cổ vật, các lăng vua Nguyễn ở Huế là những nơi lưu giữ các cổ vật quý của triều Nguyễn và Huế xưa.
PHAN THUẬN THẢO1. Từ quan điểm về hệ thống “Báu vật nhân văn sống” của UNESCO...
Những ai đã từng đi đường bộ từ Bắc vào Nam đều phải vượt đèo Hải Vân và đã chứng kiến cái di tích Hải Vân Quan đứng sừng sững trên đỉnh đèo nhìn về phía vịnh Đà Nẵng.
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Toàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.