Hành trình truy tìm sách cổ quý hiếm

16:47 05/01/2015

Từ lâu có một cuốn Lục Vân Tiên mà các nhà nghiên cứu ở miền Nam đánh giá là bản Nôm cổ nhất nhưng bị thất lạc. Gần đây, trong một lần viếng chùa cổ Long An, tình cờ cụ Nguyễn Quảng Tuân đã phát hiện, mang về hiệu chỉnh và công bố. Cũng với tình yêu vốn quý cổ truyền dân tộc, ông đã lặn lội khắp nơi trong và ngoài nước để sưu tầm, nghiên cứu, công bố nhiều tư liệu giá trị, đặc biệt là hàng loạt bản cổ khác nhau về Truyện Kiều.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân với tủ sách cổ quý hiếm thuộc hàng bậc nhất Việt Nam

Mê ca trù, yêu nàng Kiều

Tết Ất Mùi 2015, nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân đã sang tuổi 91 nhưng trông ông vẫn còn xuân lắm. Sinh ra ở đất Bắc nhưng ông gắn cả đời mình với Sài Gòn ở phương Nam. Văn hóa xứ Kinh Bắc quê hương, nhất là nghệ thuật ca trù, đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nguyễn Quảng Tuân từ thuở còn ấu thơ. Dù sau này ông về Hà Nội học Trường Bưởi, tiếp thu kiến thức Tây học từ nhiều nguồn khác nhau, rồi vào Sài Gòn dạy học, nhưng tình yêu đối với ca trù vẫn không vơi trong ông.

Bậc lão thành Nguyễn Quảng Tuân nói rằng, ca trù là thú chơi tao nhã từ xưa của cổ nhân, không dành cho đám đông mà chỉ thu hẹp trong phạm vi một nhóm nhỏ, có tri thức. Điều quan trọng là người nghe phải tuyệt đối giữ im lặng để cùng thưởng thức từ lời thơ, giọng hát tới nhịp phách, cung đàn. Vì lẽ đó, ông còn sáng tác và cổ động cho ca trù với hy vọng góp phần giữ gìn và phát huy một thể loại dân ca trí thức và kinh điển của tổ tiên đang dần bị mai một.

Ngoài ca trù, Nguyễn Quảng Tuân cũng hết sức say mê sách cổ, đặc biệt là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Tất nhiên, Truyện Kiều thì nhiều người từ trong đến ngoài nước yêu thích, nhưng say mê kiểu như ông Nguyễn Quảng Tuân quả là khác thường. Chính vì yêu áng thơ bất hủ này mà suốt đời ông bỏ công lặn lội từ Á sang Âu - Mỹ truy tìm những văn bản cổ nhất để mày mò nghiên cứu, phục dựng, phiên âm, hiệu đính, chú giải, viết lại chữ Nôm bằng tay cả tác phẩm.

Cũng vì mê Kiều mà ông liên tục bỏ tiền túi làm sách, xuất bản nhiều công trình với mong muốn mang tới cho bạn đọc bản Truyện Kiều hoàn chỉnh, xác thực nhất như: Chữ nghĩa Truyện Kiều, Tập Kiều vịnh Kiều, Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, Truyện Kiều - bản Nôm cổ nhất 1866, Truyện Kiều - bản Kinh đời Tự Đức, Truyện Kiều - bản Nôm cổ nhất - Liễu Văn Đường 1871,… Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu dĩ nhiên là không thể tránh được sai sót hoặc những nhận định chủ quan, tuy nhiên niềm say mê vốn cổ của cha ông và công phu truy tìm của Nguyễn Quảng Tuân là đáng trân trọng.

Đánh giá cao công lao của nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân đối với việc bảo tồn Truyện Kiều, Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm của Mỹ đã quyết định trao Giải thưởng Balaban Award 2010 cho ông.

Cái duyên tìm sách và tình bạn văn chương

Nguyễn Quảng Tuân xuất thân là nhà giáo. Ông có một cuộc sống thanh đạm và nghiêm cẩn. Vì mê sách cổ, thích nghiên cứu chữ nghĩa mà ông từng gặp hệ lụy. Nhưng ông không nản chí, vì đối với ông bể học thật vô cùng và chuyện đúng sai là lẽ thường tình. Trò chuyện với chúng tôi, bậc lão thành tâm sự: “Đời tôi sống vui vì sách. Nhờ trời đến tuổi này tôi vẫn mạnh khỏe, minh mẫn để tiếp tục đọc, học và nghiên cứu sách”. Rồi ông đưa chúng tôi đến từng tủ sách, mở cửa, giới thiệu say sưa những cuốn sách cổ mà ông tâm đắc nhất. Ông còn lật từng trang sách, giải thích về sự quý giá của sách lẫn công phu của người làm sách, nhất là những bản khắc in Truyện Kiều bằng chữ Nôm được ông mang về từ Pháp, từ Mỹ. Nhìn ông, chúng tôi cảm thấy sách cổ như đang được “gọi hồn” về trong tình yêu của ông.

Mời chúng tôi uống trà giữa tiết lạnh đầu xuân, học giả Nguyễn Quảng Tuân cho biết ông hay đi lễ chùa cho tâm hồn thư thái, giao lưu trò chuyện với các nhà sư. Một lần xuống viếng chùa Kim Cang ở Long An, ông thấy có tủ sách xin được xem, tình cờ phát hiện tác phẩm Lục Vân Tiên bản Nôm của thi hào Nguyễn Đình Chiểu rất quý hiếm. Đây chính là cuốn Lục Vân Tiên mà các nhà nghiên cứu ở miền Nam từng đánh giá là bản Nôm cổ nhất nhưng tìm mãi không ra. Quá đỗi vui mừng, ông xin thầy trụ trì cho mượn về nghiên cứu. Sư thầy bảo: “Bác cần thì cứ lấy”. Ông mang sách về phiên âm, chú giải, xuất bản năm 2008.

Rồi một lần khác ông xuống Tân Bình chơi ở nhà Tiến sĩ Phan Lạc Tuyên, một trí thức nổi tiếng từng tham gia đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn trước đây. Nhìn lên, ông chợt thấy có một giá sách cổ treo trên bàn thờ. Ông tò mò muốn xem, nhưng chủ nhà không cho, bảo sách cổ chỉ để thờ chứ không ai được đụng vào. Một thời gian sau, ông Phan Lạc Tuyên đến thăm nhà Nguyễn Quảng Tuân, thấy bộ ấm trà đẹp do chủ nhà mang từ Nhật về, thích quá cầm ngắm nghía mãi.
Như nhớ ra điều gì, ông Tuyên đề nghị ông Tuân đổi bộ ấm trà Nhật cho mấy quyển sách cổ. Mừng quá, ông Tuân đồng ý ngay. Nhờ đó, ông Tuân mới thoát nỗi ám ảnh về giá sách cổ trên bàn thờ nhà ông Tuyên và được sở hữu mấy cuốn sách rất quý trên cả trăm năm. Tình bạn giữa hai nhà trí thức càng khắng khít cho tới khi ông Tuân ngậm ngùi vĩnh biệt ông Tuyên cách đây hơn 2 năm.

Say mê sách cổ, Nguyễn Quảng Tuân cũng rất yêu quý, trân trọng tình bạn. Nhân dịp mừng xuân Canh Thìn năm 2000, Giáo sư Trần Thanh Đạm có viết tặng ông hai câu thơ:

“Dẫu qua thời thế cơn mưa gió
Vẫn giữ tâm hồn mảnh tuyết sương”


Cuộc đời Nguyễn Quảng Tuân không ít thăng trầm nhưng ông vẫn luôn “giữ tâm hồn mảnh tuyết sương”. Khi ông được vinh danh với Giải thưởng Balaban Award, chính John Balaban - nhà thơ, nhà ngôn ngữ học, giáo sư Anh văn Đại học North Carolina Stale, đồng thời là người sáng lập và từng giữ chức chủ tịch Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm, đã làm tặng Nguyễn Quảng Tuân một bài thơ, do Lê Phạm Lê chuyển ngữ, trong đó có đoạn sâu sắc và cảm động:

“Mê mải một mình trên bước đi
Miệt mài nghiên bút mãi tư duy
Trên đường nếu gặp người tri kỷ,
Chào hỏi nhau như bạn cố tri”.


Nguồn: Phan Phú Yên - SGGP








 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.

  • LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT

  • HUỲNH ĐÌNH KẾT

    Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.

  • LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…

  • NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...

  • HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.

  • BEATRICE KALDUN         (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.

  • PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.

  • PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN MỄ                    (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.

  • LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.

  • NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.

  • PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.

  • PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...

  • BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm  một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.