TRẦN KIÊM ĐOÀN
Sông Hương vừa là cột mốc làm chứng vừa là biểu tượng cho dáng đẹp sương khói, “áo lụa thinh không” của lịch sử thăng trầm về hình bóng Huế.
Huế và sông Hương có nhau chẳng phải do tình cờ mà bởi sông Hương có đó từ thuở hồng hoang nên nhà Nguyễn mới chọn làm “kẻ chợ ven sông”. Người ta bỗng nhớ đến một câu viết mang tính khôi hài lịch sử lãng mạn của Blaise Pascal: “Giá như cái mũi của nữ hoàng Cleopatre ngắn hơn một chút nữa thì có lẽ bộ mặt của thế giới nầy đã thay đổi.” Bởi cái ý tưởng đầy tính giả định ngộ nghĩnh nầy sẽ nói về sông Hương, rằng: Giá như không có dòng sông Hương thì Huế có còn là Huế nữa không?! Tưởng tượng Huế không có dòng sông Hương tươi mát, quyến rũ chạy dài từ Trường Sơn tới cửa Thuận An thì Huế sẽ ra sao.
Sẽ có vô số câu trả lời, nhưng tất cả đều mang tính chất “ví thử”. Hiện thực là Huế có sông Hương; hay nói một cách công bằng tương tự là sông Hương có Huế. Huế không có sông Hương sẽ như cô bé nữ sinh Đồng Khánh mà không có mái tóc thề và sông Hương mà không có Huế thì như anh học trò Quốc Học suốt ba năm đẹp nhất đời mình mà chưa từng được quen một cô bé tóc thề học trường… bên nớ, bên ni.
Ba mươi năm ở Huế, tôi chưa một lần có ý nghĩ về sông Hương tách biệt với Huế. Ba mươi năm xa Huế, tôi thường nghĩ về sông Hương và Huế mỗi khi đi qua những dòng sông nổi tiếng của thế giới ở những thành phố du lịch mà mình có dịp ghé đến. Bởi bản chất của thương yêu là tâm lý muốn nắm giữ, sợ bị phôi pha theo thời gian và mất đi bởi hoàn cảnh. Tôi đã bắt gặp tâm lý ấy của chính mình khi lần đầu tới sông Seine. Khi chưa tới sông Seine bằng xương bằng thịt, sông Seine là thơ Appolinaire, là nhạc Dean Martin, là tranh Claude Monet; nhưng khi có dịp vốc nước sông Seine vỗ nhẹ lên mặt rồi mới nhận ra sông Seine chảy qua Paris là một lạch nước trôi xuôi giữa hai bờ bê tông đã được bàn tay dân gian biến thành lầu đài nguy nga tráng lệ. Thiên nhiên tạo ra những dòng sông mất hàng triệu năm, nhưng con người biến cải những dòng sông chỉ trong vòng vài ba thế kỷ. Dẫu cho sự biến cải đó ở mức độ nào - vũng nên đồi hay đồi nên vũng - thì bộ mặt thiên nhiên của những dòng sông vẫn bị mất đi nét tươi hồng nguyên thủy.
Qua những dòng sông nổi tiếng là “sông thiêng”. Tính chất thiêng liêng của một đối tượng vật thể là sản phẩm tâm lý của con người. Thế giới có chừng vài chục dòng “sông thiêng” nhưng dòng sông được sùng bái bậc nhất và được người dân bản xứ xem là “cửa nhà Trời” như sông Hằng ở Ấn Độ. Mặc dầu không nằm trong danh sách sông thiêng nhưng từ trong cảm nhận xuôi dòng vượt ra ngoài phân tích lý luận đối với anh “Huế kiều” xa xứ như tôi lại nhớ về sông Hương. Sông Hương đối với du khách là một cảnh đẹp thiên nhiên nhưng đối với những người con xứ Huế lại mang nhiều ý nghĩa bởi tâm lý… ta về “cảm” sông Hương trước khi nhìn hơn là nhìn sông Hương rồi mới cảm. Cái nhìn bằng đôi mắt tâm hồn khác với tầm nhìn vật lý. Sông Hương là dòng “sông thiêng” của Huế vì dòng sông đó có khi che chở như một bà mẹ hiền, có khi gần gũi như một người chị, thân tình như người bạn; nhưng cũng có khi nghiêm khắc với những lằn roi lũ lụt như một người thầy.
Mười lăm năm trước, khi có lần đứng trên đồi Vọng Cảnh nhìn xuôi về sông Hương, tôi nhớ tới những dòng sông tự nhiên trở thành một hình thái sinh hoạt phố thị ven sông mà mình đã đi qua. Dòng sông “phố hội” gây một ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi trên đất Mỹ là River Walk tại thành phố San Antonio ở tiểu bang Texas. Xin nói về River Walk một chút để các nhà thiết kế sông Hương trong tương lai có chút hứng khởi mà về đây tham khảo. River Walk có nghĩa là đi bách bộ ven sông. Dòng sông San Antonio cũng nhỏ nhắn với dòng nước trong xanh, tươi mát, hiền hòa chảy qua thành phố như sông Hương. Khúc sông vào thành phố - hay thành phố được xây dựng nên bên hai bờ sông - trở thành một trung tâm du lịch nổi tiếng với nhiều công trình xây dựng mang tính kỹ thuật và nghệ thuật cao, đầy thu hút đại chúng. Nhà thơ Việt Thường đã dịch “River Walk” thành một tên lãng mạn là “Bước Giang Đầu”. Con đường ven sông và quanh gò nổi trên sông dài chỉ khoảng 6 km nhưng có đủ hầu hết mọi tiện nghi vật chất hai bên bờ: Nhiều khách sạn, hàng ăn, trung tâm giải trí, văn nghệ, nhà trưng bày, tàu thuyền du lịch trên sông… như một thành phố. Khách có thể đi quanh suốt ngày mà vẫn không cạn những thú vui muôn màu, muôn vẻ được thiết kế khá hoàn chỉnh hai bên bờ sông. Tưởng tượng nếu dọc sông Hương, có những thiết kế tương tự “Bước Giang Đầu” nầy, kéo dài từ đồi Vọng Cảnh, tới cuối Cồn Hến thì điều kiện sông núi thiên nhiên còn chiếm ưu thế gấp bội River Walk.
Qua trời Âu, hai mô thức quy hoạch, xây dựng và phát triển của hai dòng sông nổi tiếng là sông Seine ở Paris và sông Thames ở London. Đây cũng là những tài liệu sống thực mà những vị có trách nhiệm thiết kế dự án cho dòng sông Hương trong tương lai cần quan sát và tham khảo. Nói về quang cảnh thiên nhiên thì đoạn sông Seine chảy qua Paris đã bị hỏng, bởi những công trình kiến trúc và tầm cỡ của những danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng lừng lẫy thế giới nằm hai bên bờ sông Seine. Tháp Eiffel, nhà thờ Đức Bà Notre Dame, viện bảo tàng Louvre, điện Elyseés và gần cả mấy trăm công trình lớn nhỏ đã biến sông Seine thành cái lạch nước đẹp đẽ, sang trọng nhưng có vẻ gì lạc hồn trong mắt nhìn tự nhiên của một dòng sông vì thiếu vắng cái bóng dáng mượt mà tươi tắn của thiên nhiên qua bốn mùa trời đất đổi thay.
Có thể nói sông Hương là dòng sông sớm nhất, nếu không muốn nói là duy nhất, của Việt Nam có sự phát triển cả hai bên bờ Bắc và bờ Nam đồng thời và đồng đều bởi nhu cầu quân sự, hành chánh và xã hội do sự đô hộ của Pháp diễn ra từ năm 1884. Dòng sông cưu mang nỗi đau buồn “một sông hai nước… nhất giang lưỡng quốc” mà bờ Bắc là hoàng thành nhà Nguyễn và bờ Nam là nhượng địa của Tây với Tòa Khâm, Thừa Phủ, Mô Ranh… May thay, qua bao cơn biến động chìm nổi của lịch sử, mãi cho đến hôm nay dẫu đất nước đã trải qua bao lần thay da đổi thịt thì Huế và dòng sông Hương vẫn còn dáng cũ của thiên nhiên, sông nước và con người. Hai bờ sông Hương tuy được phát quang và xây dựng cho hợp với nhu cầu và đà tiến chung của toàn xã hội và đất nước, nhưng khung cảnh và sinh thái thiên nhiên vẫn còn sống động hai bên bờ từ Vọng Cảnh đến cửa Thuận An kéo dài hơn 30km.
Khi được hỏi ý kiến về những đề nghị cụ thể liên quan tới một dự án tương lai, nếu có, cho dòng sông Hương, tôi không biết nên đứng ở góc cạnh nào: Một bên là từ nguồn “lãng mạn sông Hương” của một người con xứ Huế; và bên kia là từ góc nhìn của một khách du lịch đã đi qua và nếm trải ít nhiều thực tế sinh hoạt với những dòng sông nổi tiếng từ Đông sang Tây. Phía lãng mạn thì muốn được giữ mãi dòng sông Hương như một nguồn “tiêu kim thủy” của khách vãng lai tài tử giai nhân với hình ảnh, màu sắc, âm thanh đầy nghệ thuật. Phía du khách thì muốn sông Hương trở thành một thế giới du lịch với những phương tiện sinh hoạt sinh động, lôi cuốn và kinh tế như River Walk ở Mỹ hay sông Thames ở Anh. Nhưng nhất định không thể “nhẫn tâm” để cho sự giàu sang vật chất và ưu thế của kiến trúc lịch sử, văn hóa biến dòng sông thiên nhiên thành một lạch nước nhân tạo tội tình như dòng sông Seine quặn mình chảy giữa lòng Paris của Pháp.
Đắn đo và cân nhắc mãi với những ý kiến chạy nhảy tung tăng chưa có điểm dừng của mình, tôi định tâm và tự bảo: “Tại sao không có con đường trung dung cho một sông Hương sẽ chuyển mình sang thế hệ con cháu với ngành du lịch đang sôi động toàn cầu: Nghệ thuật, kinh tế và văn hóa phải hòa nhập và bổ túc cho nhau trong thế giới du lịch ngày nay.”
Một ngày nào đó, khi lịch sử hôm nay đã lật qua nhiều trang, những người con xứ Huế và khách viếng Huế lênh đênh trên dòng sông Hương sẽ chuyện trò trao đổi về điệu hồn và dáng đẹp của sông Hương. Biển trời, lâu đài và núi non phải chuyển mình qua bao chặng đường khai phá của con người. Nhưng trên tất cả vẫn còn dáng cũ của sông Hương. Một ước mơ lãng mạn sẽ thành hiện thực khi con người và tạo vật không từ khước hay lạnh lùng chinh phục để khuất phục nhau. Sông Hương chỉ đẹp khi vẫn còn hiện hữu trong sự giao hòa.
Sacramento, đầu năm mới 2015
T.K.Đ
(SDB16/03-15)
TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...