Giọt nước trần tục

10:00 01/04/2009
ĐOÀN BÍCH HỒNGBà lão ngồi bất động nơi cây cầu giơ một khúc gỗ khẳng khiu đỡ lấy sàn nhà. Trong lúc liếc nhìn bóng mình lao chao trong cái màu xanh rêu đùng đục của dòng sông đang gắng gỏi vài mét nước cuối cùng trước khi nhập vào lòng biển, bà cố ghi nhận cái thời khắc quan trọng mà bà cảm thấy nó đang đến gần.

Minh họa: Đặng Mậu Tựu

Làng chồ in hình xuống màu nước run rẩy tĩnh lặng. Đáng lẽ phải cố gắng đứng lên,nhưng bà chỉ có thể ngước nhìn căn vách nơi những cái nồi kho cá treo la liệt. Chúng treo lẫn lộn giữa giấy tờ và các bức ảnh đóng khung. Bà lão thì thầm với đỉnh núi Sơn, mắt vuốt một đường lên cái mỏm thừa như một tam giác nhỏ chếch về hướng Bắc. Đỉnh núi nhắc bà việc quan trọng nhất phải làm. Phải đi cất những chiếc nồi này ngay bây giờ, trước khi sóng lừng sủi bọt vùi dập chúng xuống đáy biển thành rác rưởi. Bà không đủ sức để đi cất chúng nó mỗi ngày như hồi trước. Những cái nồi đã nằm yên lặng từ lâu trên bức vách nhà chồ. Ngay cả cô vũ nữ đang múa trong sóng biển màu đỏ trên thân cái nồi bằng đồng chạm trổ tỉ mỉ cũng đã phủ nhiều lớp bụi mờ. Khi bà nấu món cá tươi có rưới món sốt quả chà là Mã Lai, thì chiếc nồi đồng có thể phát ra một điệu nhạc vui tai từ phía chiếc vòi thoát hơi, và cô vũ nữ càng ẻo lả tinh quái khi bị bao phủ giữa làn hơi nước lờ mờ. Chiếc nồi đồng Sói biển đem về trong một chuyến buôn xuống phương Nam. Vợ Sói biển làm chủ một căn nhà mười hai gian, tách biệt hẳn xóm nhà chồ. Khi thuyền cập bến,chỉ có tiếng lão thét vợ chỉ huy người khuân hàng hoá quà cáp về nhà, riêng lão ôm cái nồi đồng làm phao,bơi liền một mạch từ biển vào cửa sông, tiến thẳng đến căn nhà chồ cuối cùng và làm cả làng điếc tai vì điệu nhạc từ chiếc nồi có thể hú lên từ lúc mờ sáng hay giữa đêm khuya thanh vắng.

Đã lâu bà cũng không còn đứng nơi căn vách cân nhắc nên chùi thật bóng cái nồi nào trước khi ra ngoài bãi cát đón người đàn ông của mình. Trong tiếng gầm gào vang động của biển khơi,bình minh mới hé mi mắt, rải lên bầu trời một ánh vàng mong manh nhìn xuống tạo vật óng ả đang lượn cùng những dợn sóng ngầm tận đáy đại dương. Trong lòng nước, tóc người đàn bà xoã dài, cặp môi nhiều đam mê hé mở, cặp đùi sải rộng đón sóng. Khi con thuyền đầu tiên xuất hiện ở chân trời lúc tinh mơ, làng cá nín thở trong giấc ngái ngủ giả dối, nặng trĩu cô đơn. Cửa sập im ỉm. Những bà vợ ngư dân tức tối lăn lộn tròng trành trên giường ngủ nhà mình như nằm trên sóng. Biển hú lên đồng loã đưa người đàn ông thuộc về bà ra khỏi thuyền, lặn một mạch vào chỗ những con sóng đập vào bờ thật dữ dội trong ánh mắt mở rộng đắm đuối ngưỡng mộ của người phụ nữ đang yêu. Bây giờ, mỗi buổi sớm, khi vợ người đánh cá hàng xóm treo trên đòn tay ngay chỗ bà ngồi một con cá, bà chỉ đủ sức cầm cái cây cời tro khều khều cái nồi bất kỳ nào đó và đặt nó lên bếp lửa, khác hẳn cả một đời bà luôn cẩn trọng khi lựa chọn một chiếc nồi để nấu món cá tươi cho người đàn ông sẽ ăn sáng cùng bà. Các bà vợ ngư dân trong làng lần lượt đem cá đến, ngậm chặt mẩu thuốc rê ướt đẫm nước miếng, họ cố nhìn thật kỹ từ cặp mắt sùm sụp, đến cặp mũi khoằm, đường môi trề ra không biết vì vui hay vì buồn của bà lão. Trong lúc giơ cây khều một cái nồi, bà lão ho khục khục vuốt dọc sống mũi mình một cái duy nhất.

Ngay sáng hôm ấy đến tận chiều tối, làng chài bé nhỏ rung chuyển trước cái tin bà lão Hàm sáng nay đã vuốt một cái dọc sống mũi vì cảm thấy một cơn ngứa không chịu nổi dậy sóng suốt từ đỉnh mũi chạy lên giữa đầu.Bọn đàn bà vội vã chạy ra chợ đòi nợ, mua thêm gạo, muối, đi tìm trẻ con ngủ quên trong các xó xỉnh khắp làng. Những người dũng mãnh và lãng mạn nhất vẫn đi biển. Sau một ngày chay tịnh, với điếu thuốc rê trên môi họ chậm rãi vòng vèo qua những chiếc cầu của xóm Chồ, phả khói hôi nồng vào các cánh cửa sổ bằng gỗ tạp, đến cửa nhà bà họ thả xuống nước một hình trái tim nặn bằng bột dẻo có phết màu mới mua trong cái lọ bán kẹo rẻ tiền đầu xóm dùng để neo vía và ung dung lên thuyền. Đám đông còn lại leo lên nóc nhà, chằng chống lại mấy tấm tôn lủng trong tiếng càu nhàu nguyền rủa tục tĩu không dứt của mấy bà vợ.

Bà lão vẫn lim dim nơi đòn tay nhìn ra biển, nơi đợt sóng non đầu tiên bắt đầu giận giữ xô đẩy những con thuyền gỗ tí hon mỏng mảnh đập vào nhau và vỡ tan ra như trò đùa. Phía trên đỉnh  ngọn sóng bạc bà thấy những người đàn ông của mình đang nhìn vào bờ cát bằng cặp mắt buồn rầu. Hai mươi bốn người ngồi chật mảnh thuyền vỡ. Những bức ảnh đen trắng của họ treo lẫn lộn giữa những cái nồi kho cá trên vách nhà chồ. Hai mươi bốn mộ gió trên đỉnh núi Sơn. Mỗi lần biển nổi giận, họ nương nhờ những con sóng chân dài khổng lồ lần về được đến chân núi này để bà nhìn thấy. Và chỉ có thế. Cơn bão biển nhanh chóng vỡ như bọt xà phòng, không đủ sức để nâng họ lên tận đỉnh ngọn núi, nơi mỗi người được bà xây cho một ngôi mộ thật đẹp, nắn nót một hình nhân theo đúng trí tưởng tượng bay bổng chợt loé sáng trong lúc cùng họ vật lộn như kẻ thù trên nền cát mặn và ẩm mỗi buổi tinh mơ.

Ngư dân biệt danh Sói biển nổi tiếng khắp dải miền Trung vì lão bắt cá, lẫn bắt người, khi lão đi vào lòng biển, bà đặt vào mộ gió của lão một dải lụa đỏ rực xé từ chiếc yếm lão đã mua về biếu bà trong chuyến buôn xuống phương nam và khóc thật lâu trước khi đêm xuống bà ngả vào tay lão ngư dân hàng xóm lúc nào cũng gọi nhầm tên bà. Chính lúc tên hàng xóm đang nhầm lẫn tên của bà và những người phụ nữ khác thì óc bà chợt loé lên ý nghĩa của cơn ngứa mũi buổi sáng mà bà thấy nó giống hệt cảm giác ngứa ngáy như lúc bà lên ba tuổi, ngồi trên đỉnh ngọn sóng cao mười mét đi từ biển vào giữa làng chài, dừng lại trên nóc một mái nhà có gắn con gà trống bằng gỗ của ông nội Sói biển. Con gà gợi sự chú ý đặc biệt và cô bé đã ôm ngay lấy cổ nó, ở lại vĩnh viễn với rẻo đất xa lạ. Không ai biết cô bé từ đâu đến. Các bà vợ ngư dân mất chồng trong cơn bão đứng trong lớp bùn non ngập đến nửa ống chân vừa khóc vừa xem con bé đang ngủ trên nóc nhà duy nhất còn lại giữa làng, tay vẫn ôm chặt chú gà gỗ bị sóng bẻ gãy đầu.

Quá trưa, nó mở mắt nhìn lên bầu trời chang chang nắng, trong vẻ hoảng hốt hiện lên nơi màu mắt sâu thẳm kỳ lạ, dân làng giật mình đếm thấy làng chài vơi nửa số đàn ông. Cô bé trôi giạt được cho ở góc nhà chồ cuối làng, đặt tên Hàm, nghĩa là ơn biển. Theo lệnh chồng,đàn bà trong làng lần lượt đem cá tươi đến nuôi nó. Họ ghét cay ghét đắng cặp mắt mở rộng nằm dưới cặp lông mày đen nhánh vòng cung ngạo nghễ chẳng ánh lên chút ngây thơ, sống mũi thanh tao hênh hếch, nước da vàng óng mật ong non. Con thổ dân lạc loài. Con yêu tinh. Vợ các ngư dân bước ra khỏi lều nhổ phẹt nước miếng có lẫn sợi thuốc rê xuống cát và lẩm bẩm giống hệt nhau khi họ nhớ đến cặp mắt một mí của con cái. Chẳng biết từ bao giờ,cả làng tin rằng cô bé đi khỏi nơi này thì làng sẽ gặp hoạ từ biển cả.Từ lúc ấy đến giờ bà Hàm chỉ còn ngứa mũi thêm có năm lần. Sau mỗi lần như thế bà phải xây vài ngôi mộ gió trên đỉnh núi Sơn. Phụ nữ trong làng không ai cản trở từ lúc bà chỉ huy việc khuân gạch ngói đến khi tên của người đàn ông được kẻ ngay ngắn trên bia mộ. Họ cũng không tò mò bà đã đặt cái gì vào ngôi mộ mang tên chồng, tên cha họ. Trong lúc bà làm tất cả những việc ấy,họ sai anh em,con cái đặt một chiếc bàn gỗ mỏng trên cát, bày hương hoa, chạy khắp làng tìm kiếm nải chuối bé tí và xanh ngắt còn sót lại sau cơn bão. Rồi vẫn im lặng như thế, mắt đẫm nước họ vái ra phía biển. Phụ nữ làng chài tin rằng đàn ông của họ nằm trong lòng biển kia đã thanh thản. Vậy thì cứ để mọi việc đúng như thế, như lúc người đàn ông còn sống,còn đi biển, chà đạp lên luật lệ để đến nhà con yêu nữ vào lúc chập tối, trước khi lên thuyền và không bao giờ trở về.

 Cơn bão tan. Bà Lão Hàm không tham dự lễ mừng thọ tám mươi tuổi tổ chức cho bà và mười sáu bà cụ khác. Bà không biết gì về những người cùng thời, dù bà đã sống cùng với họ từ lúc mới ba tuổi đến tận bây giờ. Bà không biết suốt một cuộc đời họ chỉ dùng khoảng năm cái nồi để nấu món cá. Một cái để kho mặn, thật mặn kiểu ăn của ngư dân mùa biển động. Những cái khác nồi nào có việc nấy.Trong căn bếp nhà bà, mỗi cái nồi là của riêng một người đàn ông không thể lẫn lộn. Bà đã ngưng mua nồi cách đây bốn mươi năm, sau một cơn ngứa mũi khủng khiếp suốt từ tối đến tận sáng tinh mơ, bà ngứa mũi đến độ anh chàng ở trong nhà chồ đêm ấy phải dìm đầu bà vào chum nước đến nổi bong bóng lên mới thả. Anh ta chưa kịp chạy đi báo tin cho làng chài biết cô Hàm bị một cơn ngứa mũi thì bầu trời đã bị xé toạc bởi những tiếng gầm rú không đến từ lòng biển, mà từ bên kia rặng núi phía Bắc chạy vào. Những căn nhà chồ chới với cuối sông đầu biển như muốn bay ngược ra đại dương mênh mông dưới cánh hàng chục chiếc trực thăng quần đảo đỉnh núi.Vào một đêm sáng trăng, cô Hàm luồn vào cái áo dài trắng và cứ thế mỏng mảnh sương khói tiến lên đỉnh núi ấy. Áo trắng cô Hàm lướt qua được tất cả hàng rào dây thép gai,những họng súng vô hình trong công sự. Từ trong bụi lau thưa ở độ cao một nghìn sáu trăm năm mươi mét so với mặt biển, cô dõi mắt về phía đường chân trời xa thẳm phía Nam, nơi xuất phát của cơn bão biển đã đẩy cô bé ba tuổi vào làng chài này trong một ngày không có mưa. Đỉnh núi bị xâm chiếm bởi một cơn gió lạnh lẽo nặng mùi, giống như mỗi lần biển động, cô Hàm loay hoay trên bãi cát gom xác cá trong tiếng kêu khóc khắp làng.Một mình cô Hàm nướng cá cho bọn trẻ ăn. Trẻ con làng chài ăn cá ươn vật vã ói mửa, rồi lại ăn, hít hà cái mùi nặng nề toát ra từ bàn tay người đẹp.

 Ngọn gió nặng mùi trộn trong ánh sáng vàng lạnh bao bọc những người đàn ông trên cái bãi rộng nơi đỉnh núi.Họ không giống như cô mường tượng khi người đàn ông thanh thản đi vào cõi vĩnh hằng trong lòng biển. Những người đàn ông này trắng nhợt, bị bụi đất ở khắp mọi nơi hút cạn máu. Cả bãi xác người nằm đủ tư thế. Người thì cứ muốn tiếp tục bỏ chạy. Người như đang ôm chặt trong vòng tay người đàn bà duy nhất của đời mình.Dưới ánh trăng mờ lạnh giữa đêm,người ta mở ổ bụng các xác chết,dọn dẹp lục phủ ngũ tạng bỏ gọn vào một cái túi nhựa màu đen và dán nó lại. Xác chết được đẩy sang bên cạnh, một cái bóng khác lặng lẽ ngồi may ổ bụng mở tanh banh đó lại bằng mũi kim cực lớn và sợi chỉ không có màu. Cuối cùng những người đàn ông đã nằm yên trong hòm kẽm, linh hồn bị bó chặt dưới những ngôi sao li ti màu trắng chẳng còn ý nghĩa gì trước cái chết. Người ta lẳng lặng khiêng những chiếc hòm tươm tất lên lại chiếc trực thăng phành phạch vỗ cánh tất bật nhào ra biển. Cô Hàm núp trong bụi lau thưa xem người ta lựa cho xác chết một cái chân bị thiếu trong đống xác người mới đổ xuống nơi sườn núi. Cặp mắt đen như đêm tối thăm thẳm u uất theo bóng chiếc trực thăng mất hút ở đường chân trời. Cô Hàm không hiểu cơn ngứa mũi của mình có liên quan gì với bãi mổ xác người dã chiến cách vùng chiến sự đến ba trăm cây số.Trong màn sương lạnh, thiếu phụ buông mình ngả người lên cành lau mềm mại. Mãi mãi về sau cô Hàm bị vây bọc trong nỗi trống trải kể từ khi cô nhìn thấy nhiều người đàn ông đẹp đẽ nằm ngửa, nằm sấp bất lực trong cái chết trẻ trên đỉnh núi Sơn trước khi vượt Thái Bình Dương trong một đêm trăng huyền ảo. Chỉ lúc ấy nỗi cô đơn khủng khiếp đè nặng lên cuộc đời được nuôi dưỡng bởi cá tươi và những người đàn ông vay mượn chợt vỡ. Cô Hàm nhỏ một giọt nước mắt trần tục lên sườn núi, không tự lý giải điều gì nữa. Áo trắng xuống núi, vượt qua tất cả những bảng cấm quân sự bằng nhiều thứ tiếng chẳng một ai thấy. Áo trắng bay chờn vờn trong trăng lạnh, như có cả trăm linh hồn cùng ve vuốt hàm ơn người đàn bà duy nhất lên được tận đỉnh núi Sơn chảy xuống một giọt nước mắt tiễn đưa.

Sau cơn bão, sau cả buổi lễ mừng thọ thiếu nhân vật chính, làng chài lại lần nữa náo động. Vẫn một cơn ngứa mũi dậy sóng mà bà cảm thấy không gì có thể ngăn cản được nó nổi lên xoáy mãi như muốn chạy vào tới tai,tới não. Nhưng lần này không ai chú ý chuyện ấy vì tất cả nháo nhào lên trong nỗi mừng vui dọn làng. Bãi nhà chồ dềnh dàng bẩn thỉu, lô nhô cọc nhọn và ván đen xỉn, nơi ẩn náu của cả nghìn con người suốt vài trăm năm qua được dọn sạch như nơi đi qua của sóng thần, trả lại cho bờ biển vẻ đẹp hoang sơ đầy thèm muốn. Đến buổi chiều, sau lúc ngắm đến chán mắt cả trăm căn nhà trệt, mái tôn bằng, giống nhau đến nhức mắt được xây biếu không cho làng chài, hơn chục phụ nữ đi tìm bà lão Hàm, thấy bà vẫn ngồi im ở doi đất nơi con sông đổ ào ra đại dương. Họ cố làm cho bà thức tỉnh khi khiêng đến trước mặt bà đống nồi cao ngất bằng đồng và bằng nhôm, gõ lên những âm thanh buồn buồn của điệu cầu ngư. Nhưng bà lão Hàm đã hoàn toàn lạc lối giữa cái trí nhớ kém cỏi của tuổi già trong lúc cố sức tìm ra sự liên quan nào đấycủa sự kiện dọn làng với cơn ngứa mũi buổi sáng. Bà không nhận ra đám phụ nữ đều là con cái của những người đàn ông từng rất yêu thương bà và ngoan ngoãn đi với họ về làng mới. Bà lão quanh quẩn chơi với những cái nồi, gõ gõ lên đáy, lắng tai nghe ngóng biển đang rầm rì ở hướng nào. Từ đó đến lúc vào lòng đất, bà không còn dịp nào lên thăm những ngôi mộ gió, nơi người ngoại quốc có thể ngủ một đêm trong căn nhà nhại kiểu nhà chồ của làng chài, được xây ngay nơi ngày xửa ngày xưa cô Hàm đã nhỏ xuống giọt nước mắt trần tục.

Đ.B.H
(241/03-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.

  • Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.

  • Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.

  • Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.

  • 1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.

  • Có thể cô gái ấy đã trồi lên từ thủy cung do thủy triều xuống quá nhanh. Một nửa thân hình của cô từ dưới eo trở lên, hoàn toàn khỏa thân nhô ra khỏi mặt nước.

  • Mặt trời như còn ngái ngủ. Cùng với cánh cò trắng từ đâu bay về sáng nay, tôi bần thần chờ đợi một điều gì đó. Nó mong manh và đằm thắm theo về với cơn gió lạnh. Như mặt trời vẫn thập thò, như đường về mệt mỏi, như hàng cây đìu hiu. Vừa gần gũi tưởng có thể ôm giữ được mà cũng vừa cách xa vời vợi.

  • Hôm qua nghe đài, có một cái tên giống hệt người thân của mình đã mất tích trong chiến tranh. Rồi một tên khác, kế tiếp một tên khác với hòm thư toàn những chữ số. Hai anh em tôi nhìn nhau. Đã biết bao lần anh em tôi nhìn nhau như vậy. Từ khi con bé thiên thần kia còn chưa biết khóc vì buồn.

  • ITiệc có vẻ sắp tàn. Nàng đứng lặng lẽ gần cửa ra vào đưa mắt bao quát căn phòng rộng. Đèn chùm sáng trắng. Nhạc êm dịu trong phòng hôn lễ đã giúp nàng tự tin hơn khi bước chân vào có một mình với bộ đồ xoàng xĩnh đang mặc.

  • Bây giờ thì Hồng sắp được gặp chị. Người chị mà suốt những năm tháng đi xa, ở đâu Hồng vẫn luôn nghĩ tới. Cứ mỗi lần như thế, một tình cảm thân thương choán ngập tâm hồn Hồng.

  • - Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rồ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.

  • Bác Hai đang ngồi trước mặt tôi, lặng im như pho tượng. Đôi mắt bác đăm đăm không chớp, nhìn về một cõi xa xăm mà tôi đoán chừng là ở nơi ấy chắc chắn có những kỷ niệm vui buồn về người em trai của bác, chính là cha tôi.

  • Cuối năm, Đài truyền hình liên tục thông báo gió mùa đông bắc tràn về, miền Tây Bắc nhiệt độ 00C, khu vực Hà Nội 70C...

  • Tôi tạm xa Hà Nội một tuần. Cũng chẳng biết là phải xa hay được xa nữa. Bố mẹ phái: - Cho con Hạ đi ăn giỗ!

  • Tặng anh Hữu Ngọc, anh Đoàn, Lành - Ngọc Anh. Tưởng nhớ chị TâmHảo không có giấy mời. Có thể những người bạn cũ của anh ở Huế cũng đã nghỉ hưu cả rồi, hoặc giả họ bận trăm công ngàn việc nên cũng chẳng nhớ anh ở đâu mà tìm... Song điều ấy không quan trọng.

  • Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc, nhận tấm thẻ thương binh, tôi trở về quê nhà. Để bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, tôi dã dành tất cả số tiền chính sách nhận được mở một quầy sách báo. Khách hàng của tôi khá đông.

  • Ông Biểu đột ngột nằm xuống. Tưởng như mọi cái đâu vào đấy. Như linh cảm trước, cuối năm con hổ, ông Biểu đã sắm cỗ áo quan dạ hương thơm nức. Xe cộ cần bao nhiêu chẳng có. Mọi thứ nếu muốn, chỉ sau một tiếng “alô” là tha hồ.

  • - Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rổ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.

  • Nó tỉnh dậy. Sương lành lạnh, thời tiết thật khắc nghiệt, ban ngày trời nắng như thiêu như đốt. Khẽ co ngón tay, một cảm giác đau buốt suốt từ đỉnh ngón chạy vào tim, xương sống như có luồng điện chạy qua. lạnh toát.

  • Chuyện kể rằng ở xóm Đồng có một gia đình hiếm con lắm, chữa mãi đến năm chồng 45 tuổi, vợ 40 tuổi mới có mang.