Giáo sư Nguyễn Lân - Đốc lý người Việt đầu tiên của thành phố Huế

08:45 25/02/2015

DƯƠNG PHƯỚC THU  

Kể từ lúc thị xã Huế được nâng lên cấp thành phố, cho đến khi người Nhật làm cuộc đảo chính hất chân người Pháp khỏi đông Dương vào ngày 9/3/1945 thì Huế vẫn là thành phố cấp 3, nhưng là thành phố của trung tâm chính trị, văn hóa, nơi đóng kinh đô cuối cùng của nhà nước quân chủ Việt Nam.

Bài đăng trên Việt - Nam Tân báo

Những năm ấy chức danh đứng đầu bộ máy hành chính thành phố Huế do người Pháp lập ra gọi là đốc lý, và họ độc quyền nắm giữ chức vụ này, viên Công sứ Pháp ở phủ Thừa Thiên trực tiếp kiêm nhiệm. Giúp việc cho đốc lý có Phó Công sứ. Ngoài ra, còn có một Hội đồng thành phố được lập nên cũng do viên đốc lý người Pháp làm chủ tịch.

Sau cuộc đảo chính của người Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập vào tháng 4/1945; theo sự đề cử của Nội các ấy, vua Bảo đại đã ký Chỉ dụ bổ nhiệm Giáo sư Nguyễn Lân tức nhà văn Từ Ngọc, đang dạy học ở trường Khải định sung làm đốc lý thành phố Thuận Hóa. Theo Chỉ dụ số 78 ngày 24/5/1945, thì “Ông Nguyễn Lân, tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm, hiện là Giáo sư trường Trung học Khải Định, sung lãnh chức Đốc lý thành phố Thuận Hóa và ông Bửu Hiệp, Y khoa Bác sĩ sung lãnh chức Phó Đốc lý”.

Hiểu như lối nay thì Giáo sư Nguyễn Lân là người Việt Nam đầu tiên làm Chủ tịch của thành phố Huế. Mặc dù Giáo sư đảm nhận chức vụ này mới chỉ gần ba tháng thì Cách mạng tháng Tám thành công; dưới vai trò của một nhà trí thức đứng đầu thành phố Giáo sư đã làm được khá nhiều việc ích lợi cho Huế.

Buổi nhậm chức đốc lý, Giáo sư Nguyễn Lân đã có bài phát biểu tâm huyết với nhân dân Thuận Hóa, ông cam kết nhanh chóng thiết lập bộ máy điều hành, chấn chỉnh đô thị, đổi những đường phố mang tên Tây sang tên danh nhân người Việt, sửa sang cầu cống, thuế khóa, cải cách tư pháp, lập nhà tế bần giúp người nghèo khó, kiên quyết xóa bỏ những tệ nạn xã hội, đồng thời ban hành những chủ trương tiến bộ nhằm đưa Thuận Hóa từng bước đi vào ổn định, nhân dân có cuộc sống tử tế hơn. để bạn đọc hiểu thêm về một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở Huế, chúng tôi xin giới thiệu nguyên văn “Lời tuyên bố của ông Đốc lý mới thành phố Thuận Hóa”, tư liệu vừa tìm thấy được in trên Việt Nam Tân Báo(1) xuất bản tại Huế.

“Lời tuyên bố của ông Đốc lý mới thành phố Thuận Hóa”

“Bản chức, mới mang ơn Thánh Thượng giáng Chỉ cho làm đốc lý thành phố Thuận Hóa.

“Khi bắt đầu nhận việc bản chức muốn tuyên bố bản chương trình tối thiểu sau đây, mong bà con trong thành phố, sẽ giúp bản chức làm tròn phận sự, để khỏi phụ lòng tín nhiệm của đức Kim Thượng, lòng ủy thác của Nội các và lòng mong mỏi của nhân dân:

1. Tẩy trừ các dấu vết của người Pháp: đổi tên các đường phố; sửa lại đài trận vong tướng sĩ thành một đài kỷ niệm ngày tuyên bố độc lập;

2. Bài trừ nạn cờ bạc: trong lúc này, dù là đàn ông hay đàn bà dù ở bất cứ địa vị nào, mà tụm năm tụm ba say mê với con bài lá bạc thì sẽ bị bắt giải tòa, và sẽ bị nghiêm trị;

3. Bài trừ nạn chợ đen;

4. Bài trừ nạn ăn mày: sẽ cộng tác với Hội đồng Cứu tế trung ương làm những nhà dục anh và tế bần, để bắt kẻ nghèo học nghề và làm việc;

5. Bài trừ nạn hối lộ: người nào định đút lót kẻ thừa hành chức vụ cũng như những kẻ ăn tiền hối lộ đều bị giải tòa, kết án rất nặng;

6. Tổ chức lại ngạch cảnh sát để giữ gìn trật tự;

7. Chăm lo việc vệ sinh chung: đặt chỗ đổ rác; sửa các cống, rãnh, cấm phóng uế ở vệ đường, ở bờ sông và ở các hầm trú ẩn (những kẻ tầm bậy sẽ bị phạt tiền, và, nếu tái phạm sẽ bị đeo biển dẫn đi qua các phố;

8. Sửa lại đường sá, tùy theo ngân sách;

9. đặt một Hội đồng thành phố gồm có những người nhiệt tâm ở các giới;

10. Phân phát các thực phẩm cho công bằng; người nào khai gian thẻ hạn chế khẩu lương sẽ bị giải tòa kết án thực nặng;

11. Kiểm soát việc đánh thuế chợ cho công bằng;

12. Tổ chức lại các phạn điếm bình dân;

13. Nhờ các bạn thanh niên dùng thì giờ rảnh làm các việc công ích: đào lỗ trú ẩn từng người; trồng khoai sắn ở hai bờ sông và ở các đất hoang để nuôi kẻ nghèo, đi khất thực giúp Ban Cứu tế; làm đồ thủ công bán lấy tiền giúp kẻ nghèo.

14. Kiểm soát việc đo lường trong thành phố cho được công bằng và khuyên nhân dân nên theo mét hệ;

15. Tổ chức lại việc phòng thủ thụ động.

Những công việc ấy, bản chức sẽ tùy theo quyền hạn mà cố gắng làm cho đầy đủ. Nhưng có kết quả hay không cũng nhờ ở tấm lòng thành thực và sốt sắng của dân thành phố đối với việc công.

Không lúc nào bằng lúc này, nhà cầm quyền và nhân dân phải đứng vào công tác; không lúc nào bằng lúc này, ta phải khuyên nhau: hăng hái làm việc và tuân theo kỷ luật!

Riêng phần bản chức, bản chức sẽ lấy câu sau này của đức Trần Hưng đạo làm câu châm ngôn cho việc cai trị: “Phép nước không nể tình thân!”.

Thuận Hóa, ngày 28 tháng 5 năm 1945 đốc lý Nguyễn Lân”.

Cũng theo Việt Nam Tân Báo công bố, kể từ ngày 6/6/1945, đốc lý Nguyễn Lân đã cho đổi 40 đường phố và công viên mang tên Tây sang tên Việt, như rue Paul Bert thành đường Trần Hưng đạo, rue Bobillot thành đường Nguyễn Tri Phương, rue Chaigneau thành đường Lý Thường Kiệt… Sau thành phố Huế chừng hơn một tháng, các thành phố đà Nẵng, Hà Tĩnh, Vinh, Thành Hóa, Hà Nội cũng lần lượt đổi tên như vậy.

70 năm sau có dịp đọc lại lời Tuyên bố này của Giáo sư Nguyễn Lân người ta thấy có nhiều điểm tiến bộ giàu tính nhân văn mà nay vẫn còn nguyên giá trị đối với việc quản lý đô thị và văn hóa Huế.

Giáo sư Nguyễn Lân và vợ - bà Nguyễn Thị Tề - Ảnh: internet


Vài nét về Đốc lý Nguyễn Lân

Giáo sư, nhà văn Nguyễn Lân, bút danh Từ Ngọc, sinh ngày 14/6/1906, ở Ngọc Lập, xã Phùng Chí Kiên, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.

Thuở trẻ ông học ở Hưng Yên, rồi lên trường Bưởi, Hà Nội, năm 1929 vào Trường Cao đẳng Sư phạm đông Dương.

Năm 1932, ông tốt nghiệp Ban Văn chương trường sư phạm này, rồi vào Kinh đô Huế dạy tại các trường Quốc Học, đồng Khánh, Bách công Kỹ nghệ cho đến đầu năm 1945.

Sau Cách mạng tháng Tám ông được giao trọng trách giữ chức Trưởng ty Giáo dục tỉnh Thừa Thiên kiêm Phó Giám đốc Nha học chánh Trung Bộ. Khi toàn quốc kháng chiến ông chuyển ra dạy ở miền Bắc. Năm 1951 làm Giám đốc Giáo dục Liên khu X, Liên khu Việt Bắc rồi sang dạy ở Trường Sư phạm cao cấp khu học xá Nam Ninh ở Trung Quốc.

Sau Hiệp định Genève về Việt Nam, hòa bình được tái lập, Giáo sư về dạy tại Trường đại học Sư phạm Hà Nội, giữ chức Chủ nhiệm bộ môn Tâm lý giáo dục đến năm 1971 mới về hưu.

Ngoài chức phận một nhà giáo, nhà báo, Nguyễn Lân còn là một tiểu thuyết gia sớm nổi tiếng trên văn đàn ngay khi tiểu thuyết Cậu bé nhà quê xuất bản năm 1925 với bút danh Từ Ngọc.

Nguyễn Lân là chủ nhân của những tác phẩm, công trình chính:

Về sáng tác: Cậu bé nhà quê (1925); Khói hương (1935); Ngược dòng (1936); Truyện ngắn Từ Ngọc (gồm một số truyện ngắn, 1936); Hai ngả (1938)...

Về biên khảo: Nguyễn Trường Tộ (1941); Để tìm hiểu Gorki (1958); Khảo thích truyện Trê Cóc (1959); Ngữ pháp Việt Nam (1959); Lịch sử Giáo dục học thế giới (1958); Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa (1960); Giảng dạy trên lớp (1961); Giáo trình giáo dục học (1961); Quy chế thực tập sư phạm (1962)…

Về từ điển: Từ điển chính tả phổ thông (1963); Từ điển Tiếng Việt (1967); Từ điển Pháp Việt (1981); từ điển từ và ngữ Hán Việt (1989); Từ điển Việt Pháp (hợp soạn, 1989); Từ điển thành ngữ và tục ngữ (1989); Từ điển thành ngữ, tục ngữ Pháp Việt (1994); Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2002)…

Giáo sư Nguyễn Lân suốt đời tận tụy gần 70 năm với thiên chức cao quý của một nhà sư phạm, một nhà văn, nhà biên soạn từ điển và có lẽ toàn diện và đầy đủ hơn khi gọi ông là một nhà văn hóa.

Do thành quả và lao động học thuật của mình, Giáo sư được đảng, Nhà nước Việt Nam tặng thưởng một số huân chương cao quý, trong đó có danh hiệu Nhà giáo Nhân dân Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Giáo sư qua đời ngày 7/8/2003, tại Hà Nội, thọ 97 tuổi.

Cũng xin được nói thêm về một giai đoạn lịch sử sau tháng 8/1945, mà có lẽ ít người biết rằng Giáo sư Nguyễn Lân đã từng đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng của chính quyền cách mạng còn non trẻ ở Huế. Riêng với lĩnh vực văn học nghệ thuật, thì tại đại hội họp ngày 6/11/1945, tổ chức ở Phủ Tôn Nhơn cũ, đã bầu nhà văn Nguyễn Lân Từ Ngọc làm Chủ tịch Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Trung Bộ(2).

Như vậy, Giáo sư Nguyễn Lân là người Việt Nam đầu tiên đảm nhận chức vụ Chủ tịch tịch thành phố Huế; sau Cách mạng tháng Tám, ông là Trưởng ty Giáo dục đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên và cũng là vị Chủ tịch đầu tiên của Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Trung Bộ.

D.P.T
(SH312/02-15)


...................................................
(1) Việt Nam Tân Báo xuất bản hàng ngày tại Huế. Chủ bút: Bác sĩ Thái Can. Số 1 ngày 23/3/1945 và dừng phát hành vào ngày 21/8/1945, được 124 số. Việt Nam Tân Báo chủ yếu công bố các chỉ dụ của vua Bảo đại và các hoạt động của Nội các Trần Trọng Kim. Chỉ dụ bổ nhiệm Giáo sư Nguyễn Lân công bố trên số 54, ra ngày 29/51945.
(2) Báo Quyết Chiến, cơ quan Thành bộ Việt Minh Thuận Hóa, số 78, ra 23/11/1945.  





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀ

    Nguyên Quân song hành làm thơ và viết truyện ngắn. Ở thể loại nào, Nguyên Quân cũng tỏ ra sở trường và tâm huyết, nhưng thơ được mọi người yêu quý và ngưỡng mộ hơn.

  • LA MAI THI GIA

    Những ngày cuối năm, Sài Gòn bỗng dưng cũng khác, sáng sớm khi băng qua cầu Thủ Thiêm vốn đã quá quen, tôi khẽ rùng mình khi làn gió lành lạnh từ dưới sông Sài Gòn thổi lên, hơi sương nhè nhẹ tỏa ra bao bọc cả mặt sông mờ ảo, bất chợt thấy lòng ngẩn ngơ rồi lẩm bẩm một mình “Sài Gòn hôm nay khác quá!”

  • PHAN HỨA THỤY

    Thời gian gần đây ở Huế, việc tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung đã trở thành một vấn đề sôi động.

  • LÃ NGUYÊN

    Số phận văn chương của Nguyễn Minh Châu gắn liền với những bước đi cơ bản của nền văn học Việt Nam ở nhiều thời điểm lịch sử cụ thể.

  • Chúng ta đã được biết đến, và đây là phương diện chủ yếu, về một Nguyễn Bính thi sĩ, và không nhiều về một Nguyễn Bính nhà báo gắn với tờ tuần báo tư nhân Trăm hoa (1955-1957)1.

  • ĐẶNG TIẾN    

    Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).