Đường Bạch Đằng từ nay không còn ông Vĩnh Phối!(*)

10:12 05/09/2017

THÁI KIM LAN

Con đường ấy, từ dốc cầu Gia Hội đổ xuống, dọc theo con sông nhánh trước kia còn gọi là sông Đông Ba, Hàng Đường, rồi Bạch Đằng, lấy tên dòng sông chảy qua chùa Diệu Đế, qua cầu Đồng Ba, về Bao Vinh, ngã Ba Sình, con đường mang nhiều vẻ lạ, nó mang phố về biển khơi và chuyên chở tứ xứ về kinh thành, vốn là phố cổ một thời với những căn nhà gỗ kiến trúc thuần Huế, nơi những gia đình thượng lưu, quý tộc định cư  một thời quan quan thư cưu

Tranh Vĩnh Phối tại nhà TKL ở Munich

Khi tôi đi xa trở về, con đường đã lắm phen phong ba sinh tử, dấu vết quá khứ thanh xuân hầu như đã nhạt nhòa, lắm lúc thấy bơ vơ trên đường cũ… nếu từ mấy mươi năm nay không có nơi đầu cầu ấy, nơi nhà ông Vĩnh Phối, mỗi buổi sáng thấy ông ngồi với các ông cũng lão, họ gọi là nhóm ông tiên, mà ông Vĩnh Phối là chủ tọa. Vào cữ 8 giờ sáng, đã thấy ông bắt đầu ngồi, đợi bạn, vây quanh là những ghế nhựa con và bàn càfê, trà… nửa giờ sau đã thấy khá đông đủ quý ông. Không biết họ thảo luận hay nói điều chi, mà sáng nào cũng thế. Nghe nói họ bàn đủ thứ, từ bách khoa tự điển, triết lý, thời sự cho đến những tin vớ vẩn về ông này bà nọ, nhưng họ không cãi nhau, mà có cãi cũng huề vì ông Vĩnh Phối ngồi đó, hiền hòa với cái khoác tay cố hữu bao dung. Mỗi lần buổi sáng có việc, chạy xe lên dốc cầu, làm sao bỏ qua cái đầu dốc ấy, nơi có đám tóc bạc lấp lánh trong nắng mai, tôi thường xuống cửa xe, đưa tay vẫy chào các cụ, mỗi lần như thế có lẽ anh Vĩnh Phối là người đầu tiên nhìn thấy, anh nhổm người, hai tay chấp chới vẫy theo, chưa kịp nói, xe chạy qua rồi tôi còn thấy mắt anh nhìn theo. Có lần dừng xe lại thì anh là người đầu tiên chạy đến, bắt tay qua cửa kính, nắm tay lúc nào cũng chặt, thân thiện, anh em.

Dáng dấp của anh vẫn là dáng dấp của một “mệ” Huế hoàng tộc đậm chất dù anh có đi đông đi tây, đi mô rồi cũng vẫn là “mệ họa sĩ” với rất nhiều tính chướng bất ngờ của một ông hoàng Huế được sinh ra để làm nghệ sĩ. Là bạn của anh tôi thuở thiếu thời, đồng môn trong hội họa. Cả hai đều là học trò ưu tú của cố họa sĩ Tôn Thất Đào, đã từng được nhiều giải thưởng hội họa từ những thập niên 50, 60 của thế kỷ trước, là những họa sĩ được đào tạo chính chuyên từ những trường mỹ thuật quốc gia tại Huế và Sài Gòn. Tôi được biết anh từ thuở xưa ấy, từ một thư sinh với mắt nhìn hội họa trong như ngọc, cho đến ông lão luôn hoa tay như muốn vẽ vào bất tận của đất trời. Sóng gió ba đào chính trị thổi qua, nhưng họa sĩ Vĩnh Phối vẫn tự tại trong nghệ thuật riêng của anh. Sự nghiệp của anh kể về chất lượng và số lượng khá lớn lao, từ tranh dầu cho đến lụa, cho đến những tác phẩm điêu khắc, từ nét đơn sơ mộc mạc của tĩnh vật cho đến những đề tài trừu tượng mang tính siêu hình, Vĩnh Phối hình như là người vẫn luôn tìm chất lượng vô tận trong tạo vật để tạo nên tác phẩm. Có lẽ điều làm cho Vĩnh Phối không ngừng là họa sĩ, chính là tâm thức trẻ thơ khi nhìn tạo vật chung quanh chẳng đặng đừng luôn đưa tay khuấy phá, tác tạo. Có khi anh theo đuổi một nét mây trời, một nụ cười, một vệt nắng, và muốn bắt chúng vào trong tranh của anh, nhưng có lẽ vì từ tâm không nỡ, nên mây, nắng, nụ cười bay theo gió để người họa sĩ với tay mãi hoài vào hư không, thử lại hơn một lần và hơn một lần nữa và lắm lúc anh để gió cuốn đi như một cơn bão rồi lại trở về miệt mài vẽ tranh.

Ít có nghệ sĩ hội họa nào ở Huế được ưu đãi về nghề nghiệp như anh, hiếm người nghệ sĩ nào có được nhiều chức vụ hàn lâm “đức cao trọng vọng” như Vĩnh Phối: Tốt nghiệp Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn năm 1958, tu nghiệp ở Học viện Mỹ thuật Roma, Italia từ năm 1959 đến năm 1966. Tốt nghiệp hội họa và điêu khắc, cùng chứng chỉ nghiên cứu mỹ thuật của khoa Văn tại Học viện Mỹ thuật Roma. Sáng lập viên và Tổng thư ký Hội Nghệ sĩ châu Á ở Roma. Từ năm 1967 đến 1975, Giám đốc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Huế. Năm 1973 được hưởng học bổng UNESCO nghiên cứu mỹ thuật Đông phương qua các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Tích Lan, Thái Lan. Sau 1975 được phong Phó Giáo sư về mỹ thuật, Nhà giáo ưu tú và giữ chức vụ Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nghệ thuật Huế cho đến ngày nghỉ hưu (1999).

Nghề nghiệp hội họa của ông hoàng phòng Trấn Định Quận Công có thể nói là viên mãn, nhưng Vĩnh Phối hầu như xem nhẹ như tơ hồng khi nhìn ông rất “ngoan đồng” ngồi giữa những ông tiên ở đầu cầu Gia Hội, và điều ấy hình như làm cho con phố Bạch Đằng như được đóng triện về phẩm hạnh đời sống vượt hẳn những lao xao ô trọc buôn bán chung quanh. Hình như không chỉ riêng mình tôi, người ở xa về Huế, mà ngay cả những người nơi phố ấy, những ông bạn mỗi ngày nhất thiết sáng sáng đạp xe đến ngồi với Vĩnh Phối, và lắm khi bạn bè từ những nơi xa như Mỹ, Pháp, Đức, Úc mỗi khi về Huế đều đến bàn vuông bàn tròn Vĩnh Phối,  ai cũng có cảm giác bình an và tâm an ở giữa chợ đời ồn ào qua về như mắc cửi năm này tháng nọ, bôn ba năm châu bốn bể, chỉ nơi đầu dốc cầu Gia Hội ấy, đổi được những khoảnh khắc hồn nhiên, tự do như nước chảy…

Không chỉ những tác phẩm ông treo trong nhà mang đến cho con đường Bạch Đằng ấy tính nghệ thuật cao sang, làm sáng thêm gợn sóng của con sông Bạch Đằng lấp lánh buổi ban mai, mà chính con người Vĩnh Phối trong thâm căn cốt cách của tâm từ hiền hòa đã ghi một nét vĩnh cửu giữa những phù du. Nét vĩnh cửu ấy chính là tâm Phật trong tất cả hội họa của anh. Anh có thể vui chơi ở mô mô, nhưng vốn lại là con nhà tâm Phật. Từ thuở thiếu thời, anh đã theo Thầy Đức Tâm góp phần vào sự gầy dựng sinh hoạt nghệ thuật Phật giáo như một nếp nhà văn hóa Huế tại Trung tâm Liễu Quán ngay những ngày đầu. Tạp chí Liễu Quán của Thầy Đức Tâm ra số đầu tiên năm 1973, với cái bìa in hình “Cây tùng Thế Miếu” rất đẹp của bác Nguyễn Khoa Lợi, đã thấy anh hào hứng tham gia với bài viết về mỹ thuật Đông Sơn. Và đến khi ấn phẩm Liễu Quán tục bản, Xuân Giáp Ngọ - tháng 01-2014, cũng lại thấy anh xuất hiện với bài nghiên cứu về mỹ thuật Phật giáo thời chúa Nguyễn qua tháp Tổ Liễu Quán. Mọi sinh hoạt văn hóa ở Trung tâm Liễu Quán không khi nào thiếu vắng gương mặt hiền hòa, thân quen ấy...

Cho nên nơi con đường ấy, anh ngồi đó như một biểu tượng của người hiền, của tài hoa và an nhiên đến bất di bất dịch.

Bỗng nhiên anh giã từ mọi người không một lời từ biệt. Những ông tiên bạn anh thấy trống trải đã đành, mà người đi qua nhà anh nơi dốc cầu Gia Hội cũng ngẩn ngơ, hụt hẫng hơn bao giờ khi không thấy Vĩnh Phối giữa bạn bè. Con phố Bạch Đằng tuồng như một giây mất tinh thần, tẻ lạnh và mồ côi. Những ngày sau bạn bè đến tiễn anh rất đông, những ngày sau nữa xe tôi chạy lên dốc cầu, xe tang vừa đi qua, nghe như nước mắt chảy, tôi bỗng thấy anh đưa đôi bàn tay vẫy vẫy, như nói vào vô tận rằng anh đang vẽ… một đời sống mới… cho nơi ấy bên dòng sông xanh.

-----------------
Chú thích

(*) Tưởng niệm anh Vĩnh Phối


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THANH TÙNG  

    Nhạc sĩ Phạm Duy không phải người Huế, nhưng qua những lần dừng lại ở Huế ông đã cho ra đời nhiều giai điệu trữ tình và nhiều hình ảnh đẹp, sâu lắng, trong đó thấp thoáng nhiều bóng hồng xứ Huế.

  • NGUYỄN QUANG HÀ  

    Để giữ gìn thành phố Huế, chính quyền miền Nam tổ chức nhiều đồn bốt để bảo vệ. Ở phía Nam Huế có đồn An Cựu gần núi Ngự Bình.


  • HUY CẬN - XUÂN DIỆU

                        (Trích)

  • DƯƠNG PHƯỚC THU  

    Ngày 22/7/2021, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức buổi tọa đàm khoa học lấy ý kiến cho Đề án xây dựng Phòng Truyền thống Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay.

  • DƯƠNG HOÀNG  

    Trải qua những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhân dân Thừa Thiên Huế đã từng bước được rèn luyện, thử thách trong gian khó và cùng lớn lên với những tên gọi, những hoạt động, nhiệm vụ cũng thay đổi qua từng giai đoạn để phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tại của phong trào cách mạng.

  • HÀ KHÁNH LINH

    Còn sống sót sau 30/4/1975 chúng tôi thường tìm đến nhau dẫu có người thân thể không còn nguyên vẹn, hoặc mắc một số bệnh nào đó do di chứng của chất độc hóa học màu da cam Diocine của Mỹ, hoặc bị sốt rét ác tính, hoặc bị tra tấn khi rơi vào tay giặc…

  • NGUYỄN QUANG HÀ  

    Chừng 9 giờ tối anh em du kích ra đón chúng tôi ở nghĩa trang làng. 

  • PHƯỚC HOÀNG   

    Ngày 23 tháng 8 năm 1945, tại sân vận động Huế, trước sự chứng kiến của hơn một vạn người, nhà thơ Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên tuyên bố, chính quyền đã về tay nhân dân, đồng thời ra mắt Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời Thừa Thiên.

  • MẶC HY

    (Nhớ về nhạc sĩ Nguyễn Hồng và các bạn văn nghệ hy sinh 40 năm trước)

  • MINH ĐẠO

    Khi tôi viết nhưng dòng này, tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Bóng tối bao phủ lấy tôi đã 10 năm qua rồi.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU  

    Nhà báo - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh Võ Giáp, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho yêu nước, mà thân phụ là một “thầy đồ” trường huyện.

  • XUÂN HOÀNG
              Hồi ký

    (Trích Chương V, tập II - "Trường tư thục Thuận Hóa")

  • PHẠM PHÚ PHONG    

    Người già thường hay nghĩ ngợi về quá khứ. Không biết có phải vì thế hay không mà khi đọc lại Biên niên Sông Hương[1], tôi bỗng nhớ đến một cuộc hội thảo về Tạp chí Sông Hương diễn ra cách đây gần tròn 37 năm.

  • VŨ THỊ THANH LOAN  

    1. Lemur Nguyễn Cát Tường là một họa sĩ trẻ tài năng của khóa IV trường Mỹ thuật Đông Dương (1928 - 1933). Sau khi tốt nghiệp, ông thường xuyên cộng tác với báo Phong Hóa, Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Chiếc áo dài đầu tiên đời tôi được mẹ may vào năm tôi lên Đệ Thất (lớp 6 bây giờ). Biết nói sao niềm vui sướng của tôi khi lần đầu mặc chiếc áo dài ấy!

  • TRẦN TRUNG SÁNG  

    Khoảng mùa đông 1970 - 1971, khi đang còn đang học lớp 10, trong một chuyến phiêu lưu lãng mạn và rồ dại nhất của tuổi thiếu niên, tôi có lần lạc bước đến một xóm nhỏ gần bên cầu Gia Hội, và đã gặp ông: họa sĩ Lê Vinh, người họa sĩ vẽ tranh xi-nê lừng danh nhất xứ Huế thời bấy giờ. Lúc này, ông chừng độ tuổi 30, người dong dỏng, tóc vuốt ngược, sơmi màu, quần jean, giày cổ cao, dáng dấp phong trần, như bước ra từ màn bạc!

  • HOÀNG PHƯỚC   

    Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ, tiếp đó, ngày 24 tháng 2 năm 1946, cử tri toàn tỉnh Thừa Thiên phấn khởi nô nức đi bầu Hội đồng Nhân dân tỉnh và Hội đồng Nhân dân thành phố Huế. Đây là ngày hội lớn chưa từng có trong lịch sử của toàn thể Nhân dân Việt Nam sau ngày đất nước được độc lập.

  • TRẦN NGUYÊN HÀO  

    Năm 1946, lần đầu tiên toàn thể người dân Việt Nam được hưởng và thực thi quyền làm chủ, tự do lựa chọn bầu ra những người đại diện xứng đáng gánh vác công việc chung của đất nước; cùng với đó là những tư tưởng về dân chủ, pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại bài học giá trị cho mai sau.