THÁI KIM LAN
Con đường ấy, từ dốc cầu Gia Hội đổ xuống, dọc theo con sông nhánh trước kia còn gọi là sông Đông Ba, Hàng Đường, rồi Bạch Đằng, lấy tên dòng sông chảy qua chùa Diệu Đế, qua cầu Đồng Ba, về Bao Vinh, ngã Ba Sình, con đường mang nhiều vẻ lạ, nó mang phố về biển khơi và chuyên chở tứ xứ về kinh thành, vốn là phố cổ một thời với những căn nhà gỗ kiến trúc thuần Huế, nơi những gia đình thượng lưu, quý tộc định cư một thời quan quan thư cưu…
Tranh Vĩnh Phối tại nhà TKL ở Munich
Khi tôi đi xa trở về, con đường đã lắm phen phong ba sinh tử, dấu vết quá khứ thanh xuân hầu như đã nhạt nhòa, lắm lúc thấy bơ vơ trên đường cũ… nếu từ mấy mươi năm nay không có nơi đầu cầu ấy, nơi nhà ông Vĩnh Phối, mỗi buổi sáng thấy ông ngồi với các ông cũng lão, họ gọi là nhóm ông tiên, mà ông Vĩnh Phối là chủ tọa. Vào cữ 8 giờ sáng, đã thấy ông bắt đầu ngồi, đợi bạn, vây quanh là những ghế nhựa con và bàn càfê, trà… nửa giờ sau đã thấy khá đông đủ quý ông. Không biết họ thảo luận hay nói điều chi, mà sáng nào cũng thế. Nghe nói họ bàn đủ thứ, từ bách khoa tự điển, triết lý, thời sự cho đến những tin vớ vẩn về ông này bà nọ, nhưng họ không cãi nhau, mà có cãi cũng huề vì ông Vĩnh Phối ngồi đó, hiền hòa với cái khoác tay cố hữu bao dung. Mỗi lần buổi sáng có việc, chạy xe lên dốc cầu, làm sao bỏ qua cái đầu dốc ấy, nơi có đám tóc bạc lấp lánh trong nắng mai, tôi thường xuống cửa xe, đưa tay vẫy chào các cụ, mỗi lần như thế có lẽ anh Vĩnh Phối là người đầu tiên nhìn thấy, anh nhổm người, hai tay chấp chới vẫy theo, chưa kịp nói, xe chạy qua rồi tôi còn thấy mắt anh nhìn theo. Có lần dừng xe lại thì anh là người đầu tiên chạy đến, bắt tay qua cửa kính, nắm tay lúc nào cũng chặt, thân thiện, anh em.
Dáng dấp của anh vẫn là dáng dấp của một “mệ” Huế hoàng tộc đậm chất dù anh có đi đông đi tây, đi mô rồi cũng vẫn là “mệ họa sĩ” với rất nhiều tính chướng bất ngờ của một ông hoàng Huế được sinh ra để làm nghệ sĩ. Là bạn của anh tôi thuở thiếu thời, đồng môn trong hội họa. Cả hai đều là học trò ưu tú của cố họa sĩ Tôn Thất Đào, đã từng được nhiều giải thưởng hội họa từ những thập niên 50, 60 của thế kỷ trước, là những họa sĩ được đào tạo chính chuyên từ những trường mỹ thuật quốc gia tại Huế và Sài Gòn. Tôi được biết anh từ thuở xưa ấy, từ một thư sinh với mắt nhìn hội họa trong như ngọc, cho đến ông lão luôn hoa tay như muốn vẽ vào bất tận của đất trời. Sóng gió ba đào chính trị thổi qua, nhưng họa sĩ Vĩnh Phối vẫn tự tại trong nghệ thuật riêng của anh. Sự nghiệp của anh kể về chất lượng và số lượng khá lớn lao, từ tranh dầu cho đến lụa, cho đến những tác phẩm điêu khắc, từ nét đơn sơ mộc mạc của tĩnh vật cho đến những đề tài trừu tượng mang tính siêu hình, Vĩnh Phối hình như là người vẫn luôn tìm chất lượng vô tận trong tạo vật để tạo nên tác phẩm. Có lẽ điều làm cho Vĩnh Phối không ngừng là họa sĩ, chính là tâm thức trẻ thơ khi nhìn tạo vật chung quanh chẳng đặng đừng luôn đưa tay khuấy phá, tác tạo. Có khi anh theo đuổi một nét mây trời, một nụ cười, một vệt nắng, và muốn bắt chúng vào trong tranh của anh, nhưng có lẽ vì từ tâm không nỡ, nên mây, nắng, nụ cười bay theo gió để người họa sĩ với tay mãi hoài vào hư không, thử lại hơn một lần và hơn một lần nữa và lắm lúc anh để gió cuốn đi như một cơn bão rồi lại trở về miệt mài vẽ tranh.
Ít có nghệ sĩ hội họa nào ở Huế được ưu đãi về nghề nghiệp như anh, hiếm người nghệ sĩ nào có được nhiều chức vụ hàn lâm “đức cao trọng vọng” như Vĩnh Phối: Tốt nghiệp Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn năm 1958, tu nghiệp ở Học viện Mỹ thuật Roma, Italia từ năm 1959 đến năm 1966. Tốt nghiệp hội họa và điêu khắc, cùng chứng chỉ nghiên cứu mỹ thuật của khoa Văn tại Học viện Mỹ thuật Roma. Sáng lập viên và Tổng thư ký Hội Nghệ sĩ châu Á ở Roma. Từ năm 1967 đến 1975, Giám đốc Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Huế. Năm 1973 được hưởng học bổng UNESCO nghiên cứu mỹ thuật Đông phương qua các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Tích Lan, Thái Lan. Sau 1975 được phong Phó Giáo sư về mỹ thuật, Nhà giáo ưu tú và giữ chức vụ Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nghệ thuật Huế cho đến ngày nghỉ hưu (1999).
Nghề nghiệp hội họa của ông hoàng phòng Trấn Định Quận Công có thể nói là viên mãn, nhưng Vĩnh Phối hầu như xem nhẹ như tơ hồng khi nhìn ông rất “ngoan đồng” ngồi giữa những ông tiên ở đầu cầu Gia Hội, và điều ấy hình như làm cho con phố Bạch Đằng như được đóng triện về phẩm hạnh đời sống vượt hẳn những lao xao ô trọc buôn bán chung quanh. Hình như không chỉ riêng mình tôi, người ở xa về Huế, mà ngay cả những người nơi phố ấy, những ông bạn mỗi ngày nhất thiết sáng sáng đạp xe đến ngồi với Vĩnh Phối, và lắm khi bạn bè từ những nơi xa như Mỹ, Pháp, Đức, Úc mỗi khi về Huế đều đến bàn vuông bàn tròn Vĩnh Phối, ai cũng có cảm giác bình an và tâm an ở giữa chợ đời ồn ào qua về như mắc cửi năm này tháng nọ, bôn ba năm châu bốn bể, chỉ nơi đầu dốc cầu Gia Hội ấy, đổi được những khoảnh khắc hồn nhiên, tự do như nước chảy…
Không chỉ những tác phẩm ông treo trong nhà mang đến cho con đường Bạch Đằng ấy tính nghệ thuật cao sang, làm sáng thêm gợn sóng của con sông Bạch Đằng lấp lánh buổi ban mai, mà chính con người Vĩnh Phối trong thâm căn cốt cách của tâm từ hiền hòa đã ghi một nét vĩnh cửu giữa những phù du. Nét vĩnh cửu ấy chính là tâm Phật trong tất cả hội họa của anh. Anh có thể vui chơi ở mô mô, nhưng vốn lại là con nhà tâm Phật. Từ thuở thiếu thời, anh đã theo Thầy Đức Tâm góp phần vào sự gầy dựng sinh hoạt nghệ thuật Phật giáo như một nếp nhà văn hóa Huế tại Trung tâm Liễu Quán ngay những ngày đầu. Tạp chí Liễu Quán của Thầy Đức Tâm ra số đầu tiên năm 1973, với cái bìa in hình “Cây tùng Thế Miếu” rất đẹp của bác Nguyễn Khoa Lợi, đã thấy anh hào hứng tham gia với bài viết về mỹ thuật Đông Sơn. Và đến khi ấn phẩm Liễu Quán tục bản, Xuân Giáp Ngọ - tháng 01-2014, cũng lại thấy anh xuất hiện với bài nghiên cứu về mỹ thuật Phật giáo thời chúa Nguyễn qua tháp Tổ Liễu Quán. Mọi sinh hoạt văn hóa ở Trung tâm Liễu Quán không khi nào thiếu vắng gương mặt hiền hòa, thân quen ấy...
Cho nên nơi con đường ấy, anh ngồi đó như một biểu tượng của người hiền, của tài hoa và an nhiên đến bất di bất dịch.
Bỗng nhiên anh giã từ mọi người không một lời từ biệt. Những ông tiên bạn anh thấy trống trải đã đành, mà người đi qua nhà anh nơi dốc cầu Gia Hội cũng ngẩn ngơ, hụt hẫng hơn bao giờ khi không thấy Vĩnh Phối giữa bạn bè. Con phố Bạch Đằng tuồng như một giây mất tinh thần, tẻ lạnh và mồ côi. Những ngày sau bạn bè đến tiễn anh rất đông, những ngày sau nữa xe tôi chạy lên dốc cầu, xe tang vừa đi qua, nghe như nước mắt chảy, tôi bỗng thấy anh đưa đôi bàn tay vẫy vẫy, như nói vào vô tận rằng anh đang vẽ… một đời sống mới… cho nơi ấy bên dòng sông xanh.
-----------------
Chú thích
(*) Tưởng niệm anh Vĩnh Phối
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.