Được làm lính Cụ Hồ

15:30 15/04/2022

VÕ MẠNH LẬP

Quê hương của cựu chiến binh Huỳnh Hồng ở Thừa Thiên Huế, nhưng sau ngày nghỉ hưu, anh lập gia đình và định cư ở Đà Nẵng.

Tác phẩm "Trên chặng đường chiến dịch", tranh lụa của Nguyễn Thanh Châu - Ảnh: Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch

Nói là đến tuổi nghỉ hưu lại mang trong mình thương tật ¾ nhưng vốn là người xông xáo, hay nghĩ hay làm, không ngại gian khó, anh mạnh dạn đầu tư xây dựng một trang trại lớn nằm về phía Nam đèo Hải Vân, trên đất Đà Nẵng, cách kho xăng Liên Chiểu về phía Tây chưa đầy trăm mét theo đường chim bay.

Đông đến, khoảng tháng 10 Âm lịch là trời đã bắt đầu se lạnh, nhưng vẫn như thường lệ, Huỳnh Hồng vẫn có thói quen dậy sớm để mở cửa chuồng cho bò, dê, gà đi ăn. Lướt vội những công việc dự tính sẽ làm trong ngày rồi sau đó, anh phóng xe xuống một quán cà phê quen thuộc nằm bên vệ đường để tìm chút thư thái khi được nhâm nhi từng giọt cà phê nóng hổi thơm ngon.

 Trong quán đã có lác đác vài người khách.

- O ơi! Cho một đen nóng nghe. - Anh gọi.

- Dạ!

Chưa ngồi ấm chỗ, anh thấy một vị khách mặc áo pilot trạc tuổi anh ngồi ở bàn kế bên hỏi với sang:

- Xin lỗi! Anh người Huế phải không?

- Tui người Huế. Rứa còn anh?

- Tui cũng Huế. Nhưng tui xa Huế quá lâu, thỉnh thoảng mới về.

- Xa mấy năm?

- Hồi 23 tuổi!

- Hồi đó làm chi mà xa Huế sớm rứa?

- Đi lính! Bị thương. Ra lính! Làm ăn kiếm sống trong Nam luôn.

Nghe đến chữ lính, Huỳnh Hồng vồ vập:

- Ồ! Lính ta à!

- Không, tôi là lính chế độ cũ, là thông dịch viên cho Reng 7 trung đoàn cơ động thuộc một sư đoàn lính gốc Phi tại Huế.

- Đánh chỗ mô mà bị thương? - Huỳnh Hồng đột ngột hỏi.

- Cầu chợ Nịu. Vào khoảng tháng 10 năm 1953. Lần đầu đi trận, ca nô tui vừa ra cầu chừng 30 mét, liền bị súng từ bên tê bờ bắn. Ca nô chìm, tôi bị thương ở đùi và được vớt lên tàu chiến.

- Ồ! Chuyện chi lạ rứa? Có đúng là 27 tháng 10 không? - Huỳnh Hồng hỏi dồn.

- Cỡ nớ! Giấy khai trình trên thương tật là hai bảy. Tui nhớ rồi!

- Rứa thì... Úi chào! Quá lạ! Quá lạ! - Huỳnh Hồng lại thốt lên. Quên cả tách cà phê cô chủ quán mang lên đã bắt đầu nguội.

Cuộc gặp gỡ tình cờ không ngờ lại khơi dậy cho cả hai những ký ức về chiến tranh của một thời trai trẻ nhưng họ lại ở hai bờ của chiến  tuyến…

Giữa cuộc trò chuyện bên tách cà phê, Huỳnh Hồng biết được vài thông tin về người đối diện: Anh tên là Chế Văn Quang, ở Bao Vinh, Huế. Cha mẹ mất sớm, chỉ còn lại chú bác. Anh dạy tiếng Anh, vợ buôn bán. Anh có 3 con đã có nghề, làm ăn khá giả. Lần này, anh quay về quê  hương khói cho cha mẹ, thăm hàng xóm và mong muốn tìm kế giúp bà con tí chút nhưng chưa tìm ra lối. Tự nhiên, anh cảm thấy có thiện cảm về con người này. Cuộc trò chuyện của họ ngày càng trở nên giản dị nhưng hào hứng. Quá khứ ùa về như những cuốn phim chạy chậm hiện rõ trong ký ức của hai người lính. Hồi ức về trận càn ngày 27 tháng 10 năm 1953 như hiện rõ trước mắt hai người lính. Năm mươi năm trôi đi, ngày ấy Quang ở tuổi 22, Huỳnh Hồng mới tròn 18.

Sau chiến thắng, ta diệt hai trung đội biệt kích và bọn ác ôn Lý Huề ở đồn Lai Hà. Vùng Phong Điền, Quảng Điền đã bắt đầu trở lại không khí tự do. Người dân yên tâm làm ăn không phải nơm nớp lo sợ như ngày trước. Bộ đội được dân chăm lo đùm bọc. Tiểu đội Huỳnh Hồng vỏn vẹn bốn người, đóng quân ở Trằm Nậy. Không phải vì chức vụ tiểu đội trưởng mà theo thói quen ngoài những giờ nghỉ, Huỳnh Hồng thường tha thẩn quanh vùng xem xét địch đóng quân, hướng địch có thể tràn về tấn công để vẽ ra trong đầu thế chiến đấu hợp lí nhất. Tuy bị co cụm nhưng bọn chúng ở các đồn Lai Hà, Phò Trạch, Mỹ Chánh, đâu chịu ngồi yên.

Hồi đó, địch nghe đến cái tên Thân Trọng Một - vị chỉ huy nổi tiếng của một tiểu đoàn bộ đội địa phương - đã sợ xám xanh mặt, nhưng chúng cũng quyết tâm tìm cách tiêu diệt Tiểu đoàn 231.

Rạng sáng ngày 27 tháng 10 năm 1953, tiết trời se lạnh, Huỳnh Hồng ôm khẩu tuyn vào bụng, gối chiếc chăn cũ lên đầu. Bỗng một loạt súng nổ phát ra từ trảng cát Phong Chương, Quảng Thái. Chưa kịp dụi mắt, đứng dậy Huỳnh Hồng lại nghe văng vẳng từ xa như là tiếng

Đại đội phó Lâm: “Kêu thằng Hồng dậy”. “Có” Hồng đáp lại một tiếng thật to làm cho cả nhà và 3 người lính nhà bên thức giấc. Trong lơ mơ, Hồng bần thần không biết có súng nổ, có tiếng gọi của anh Lâm hay không? Một lát sau nghe rõ hơn giọng của anh Lâm vang lên:

- Địch về làng rồi Hồng ơi!

Sau khi được giao nhiệm vụ, nhanh như cắt, Huỳnh Hồng quàng chiếc chăn xi ta màu xám qua vai, cài năm băng đạn vào lưng xách khẩu tuyn và lệnh cho anh em trong tiểu đội:

- Đi theo tui!

Ba anh em cũng nhanh nhẹn kẹp 3 khẩu mút-cơ-tông chạy theo. Tiếng súng nổ hướng đường số một, Huỳnh Hồng khẳng định trong đầu và leo lên trảng cát rộng dài từ Quảng Thái lên đến Đồng Lâm.

Trời mưa phùn, sáng sớm nhìn mặt người chưa rõ, bốn người lính nép vào lùm cây rậm đảo mắt nhìn và không thấy tên địch nào nhưng vẫn nghe tiếng rào rào như ong vỡ tổ. Huỳnh Hồng biết chắc là địch đang tới gần. Phía đằng sau là cát trắng, ở vị trí này mà nổ súng thì sẽ bị tiêu diệt. Huỳnh Hồng ra lệnh rút lui vượt trảng cát rộng và trụ lại trên các bụi cây trên cồn cát cao. Chỗ vừa rút lui đã thấy một thằng người cao to đưa ống nhòm lên quan sát, phía trái một khẩu trung liên vừa đặt xuống. Bốn chiến sĩ cùng nhả đạn vào thằng cao to rồi ào chạy vào làng Trằm Nậy. Tiếng nổ râm ran chĩa về một đích, sau đó im bặt và chúng nó chạy theo sau áp sát làng Trằm Nậy và các làng bên cạnh thành một gọng kìm.

Trong câu chuyện dài dài, Quang cười:

- Thằng cao to là quan tư Pháp. Tui làm thông dịch cho hắn.

- Răng hắn không bắn tiếp? - Huỳnh Hồng hỏi.

- Hắn thoáng thấy các anh ít, hắn ra lệnh tiến vào bắt sống.

- Hắn không sợ ông Một à?

- Bọn châu Phi biết ông Một là ai mô. Hắn được lệnh tiêu diệt Tiểu đoàn 231 đang đóng quân ở Phong, Quảng.

Bốn chiến sĩ chạy được quá nửa làng thì gặp một con đường rộng chừng sáu, bảy mét, Huỳnh Hồng ra lệnh:

- Chúng ta phải vượt nhanh qua bên kia đường!

Vừa nấp người qua thân cây dứa thì một thằng Tây cao lêu nghêu đen ngòm như than lù lù đi tới, trong tay lăm lăm khẩu súng. Anh em dí tay vào lưng Hồng, anh hất tay ra hiệu không được bắn. Thằng Tây đen vừa qua chừng mười mét, tiếp theo là một đám lính rất đông. Bọn chúng giẫm trên cát mà vẫn nghe rõ lạo xạo tiếng giày như trâu bò đi.

Địch vừa đi qua, Huỳnh Hồng đã ra lệnh bắn. Cả đám lính nằm rạp xuống, quay súng ra đằng sau nằm im không hề phản ứng. Nhân cơ hội đó bốn chiến sĩ tiếp tục chạy, tiếp tục quay lại bắn rồi rút vào các làng, vòng ra đống cát. Địch đuổi riết, bốn chiến sĩ đổi hướng chạy ngang, bò men theo những bụi cây để lùi ra đàng sau mũi tiến của chúng. Khi bò ra xa giữa trảng cát, kiểm tra quân số, bốn chiến sĩ bị lạc mất một người.

Nghe kể tới đây, Quang cười hỏi Huỳnh Hồng:

- Anh biết vì răng hắn không bắn?

- Răng bọn tui biết được?

- Các anh thoát được là nhờ thông minh. Suốt cả ngày chúng nó săn tìm các anh khắp các làng nhưng không thấy. Coi như cuộc càn không thành công, sở chỉ huy ở Huế ra lệnh rút quân về phá Tam Giang vào Huế. Cả ngày hôm ấy, các anh ẩn nấp ở mô mà như tàng hình rứa?

- Ba chúng tôi chôn người trong cát, bên cạnh những bụi rậm, không cơm, không nước mà đôi mắt và nòng súng vẫn bám theo các hành vi của địch.

- Anh biết lệnh chúng rút lui à?

- Không! Nhưng sau quan sát thấy cách di chuyển của nó tôi đoán có lẽ chúng sẽ rút.

Trời sắp chạng vạng, từ xa Huỳnh Hồng thấy địch rục rịch đi về phía chợ Nịu. Anh em chúng tôi cảm thấy người khỏe khoắn trở lại và cầm súng lần đường dò theo hướng đi của chúng. Khi đến gần chợ Nịu, ngoài phá đã xuất hiện năm tàu chiến. Nhanh trí, Huỳnh Hồng đoán chúng sẽ dồn về chợ Nịu để đi ca nô ra tàu. Lúc đó cái bụng Huỳnh Hồng sướng vô cùng vì biết cơ hội đã đến. Không biết mệt, không thấy đói, Huỳnh Hồng giục hai người đồng đội:

- Theo tui mau.

Hai lính, hai súng trường và một tiểu liên kẹp nách chạy băng qua cầu bên kia chợ Nịu thì trời gần tối. Một đoàn ca nô lần lượt rời bến. Ba anh em Hồng dồn đạn cho chiếc gần bờ nhất...

- Tôi bị loạt đạn đầu tiên -  Quang nói chen.

- Rứa à, có bị chi không?

- May mắn tui thoát được làn đạn của các anh, chỉ bị thương nhẹ! Và bây giờ lại may mắn gặp được người đã tấn công bọn tui.

Nói đến đây, Quang tóe miệng cười: - Chết đi không nói mần chi, sống mới là cơ may để nhìn nhận lại mọi chuyện. - Giọng Quang bỗng trầm ngâm, ánh mắt thoáng xa xăm...

- Chừ anh biết tui là ai rồi chơ. Răng, còn muốn nói chuyện với tui không? - Quang cười ha hả.

- Thống nhất, hòa hợp rổi mà anh nói chi lạ hè, Huỳnh Hồng cũng trải lòng. Đã là người Việt thì ai cũng có lòng yêu nước, chẳng qua là do hoàn cảnh thời cuộc thôi, có điều là tui may mắn hơn anh. Đã là chiến tranh thì bên nào cũng mất mát đau thương, sức mạnh của chính nghĩa ngàn đời vẫn thắng mà thôi. Anh nói chân thành nhưng không dấu được niềm tự hào.

Câu chuyện của họ cứ thế kéo dài đến quá trưa mà vẫn không dứt. Như một đôi bạn đã quen từ lâu, họ còn hẹn gặp gỡ nhau vào một dịp khác đẹp trời tại trang trại của Huỳnh Hồng. Trên đường về, những ký ức về cuộc chiến đối mặt với Reng 7 cứ hiện rõ mồn một trong đầu Huỳnh Hồng. Anh nhớ mãi câu nói của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Chi trong buổi tổng kết trận đánh: “Đây là trận chống càn đầu tiên của Tiểu đoàn, lấy ít đánh nhiều. Diễn biến của trận đánh thông minh, linh hoạt và hiệu quả rất lớn”. Vài hôm sau, Huỳnh Hồng bất ngờ được lệnh Ban chỉ huy Tiểu đoàn cử đi dự liên hoan chiến sĩ thi đua Bắc Thừa Thiên tại thôn Thanh Xuân, xã Phong Thái (gần chiến khu Hòa Mỹ) do tỉnh Thừa Thiên tổ chức. Tại đây, anh được mời báo cáo tường tận trận đánh càn ngày 27 tháng 10 ở Quảng Thái. Sau khi nghe anh báo cáo, những tràng vỗ tay dậy lên. Các đại biểu thân mật không gọi anh là Huỳnh Hồng mà là Huỳnh Hổ.

Trước khi chia tay, chợt như nhớ ra điều gì, Quang còn hỏi với một câu:

- Đánh đấm dữ rữa chắc trước khi ra quân anh đã lên tướng rồi hè?

- Ui chà chà! Tướng tá chi, có chi sướng hơn được làm lính Cụ Hồ phải không thông dịch viên Reng 7!

V.M.L
(TCSH44SDB/03-2022)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THÁI VŨ

    Nguyễn Phúc Đảm (sau này là vua Minh Mạng), sinh năm 1791 tại Gia Định, là con trai thứ 4 của Vua Gia Long, Nguyễn Phúc Ánh, nối ngôi vua năm 1820 lúc 30 tuổi.

     

  • TỪ HỒNG QUANG     

    Thông thường, khi vui người ta nghĩ đến những điều vui và kể lại cho bạn bè nghe. Nhưng ông cha ta có câu: “Không ai nắm chặt tay từ sáng đến tối”. Lại có câu: “Bảy mươi chưa hết què, chớ khoe mình lành”.

  • ĐÔNG HÀ   

    Tôi không biết từ đâu, tôi lại tha thiết yêu những câu hát đẹp như mơ được cất lên từ chị, có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em đã nương theo vào đời làm từng nỗi ưu phiền

  • HÀ KHÁNH LINH

    Theo hẹn, tôi đến trước vài phút ngồi ở salon khách sạn Hương Giang - lơ đãng nhìn những người đi lại trong hành lang.

  • TRẦN NGỌC TRÁC

    Như duyên nợ, chúng tôi đã đồng hành cùng nhau qua series ký sự “Trịnh Công Sơn nhẹ gót lãng du”(1).

  • PHẠM XUÂN PHỤNG

    Vào đúng 9 giờ đêm 26 tháng 3 năm 1975, chúng tôi vui sướng đến nghẹn ngào nhận tin vui Huế đã được giải phóng qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam phát thanh từ Hà Nội. Tiếp đến là mệnh lệnh tất cả sẵn sàng hành quân về Huế. Không ai không mong chờ niềm vui ấy, nhưng những người lính quê Thừa Thiên, trong đó có tôi đều vui mừng vì sắp được trở lại quê nhà!

  • PHI TÂN

    1.
    Buổi chiều trên đường đi làm về thấy một chị phụ nữ bày bán những con heo đất bên vỉa hè màu xanh, đỏ, vàng, cam nhìn thật vui mắt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Hồi ức làm ta muốn khóc...
                            (Vasiliev)

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Vua Minh Mạng có 78 hoàng tử, được giáo dưỡng đàng hoàng, hầu hết các hoàng tử có học hạnh, hoàng trưởng tử trở thành vua hiền Thiệu Trị, một số trở thành vương công nổi tiếng như Thọ Xuân vương, Tùng Thiện vương, Tuy Lý vương…

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN   

    Chưa bao giờ tôi được lội bộ đùa chơi với cỏ thỏa thích như bao lần khai hội Festival ở Huế. Đêm, giữa cái triều biển người nối đuôi nhau từ khắp các ngả đường hướng về khu Đại Nội, tôi và em mồ hôi nhễ nhại, hai đôi chân rã rời, đến nỗi em phải tháo giày cầm tay, bước đi xiêu lệch.

  • HÀ KHÁNH LINH   

    Bão chồng lên bão, lũ lụt nối tiếp lũ lụt. Miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng chưa bao giờ phải hứng chịu thiên tai dồn dập khủng khiếp đến mức chỉ trong vòng trên dưới một tháng mà có đến sáu cơn bão mạnh với hai áp thấp nhiệt đới, đã cướp đi nhiều sinh mạng và xóa sạch tài sản của những con người suốt một đời chắt chiu dành dụm xây cất lên...

  • PHẠM XUÂN PHỤNG

    Một buổi chiều năm 1968, chúng tôi nhận lệnh tập trung tại một khu vườn thuộc làng (nay là phường) Kim Long.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Mười năm trước đây, một sự kiện văn hóa diễn ra tại Huế đã khiến nhiều người ngạc nhiên và tự hào: Huế từng có Nhà xuất bản Tinh Hoa xuất bản các ấn phẩm âm nhạc sớm nhất toàn cõi Đông Dương, sự kiện Gala Tinh Hoa - Sông Hương nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa. Sự kiện đó đã làm rung động nhiều trái tim yêu âm nhạc, nhất là những ai mê lịch sử Tân nhạc Việt Nam.

  • HÀ LÂM KỲ

           Hồi ký

  • NGUYỄN QUANG HÀ

    Tôi vốn là người lính. Sau Mậu Thân 1968, một số phóng viên báo Cờ Giải Phóng - Huế hy sinh, một số bị thương ra Bắc, tôi được thành đội trưởng Huế cử biệt phái sang làm phóng viên báo Cờ Giải Phóng, sau mấy năm thì trở thành phóng viên thật sự.

  • Kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế (18/9/1945 - 18/9/2020)

    DƯƠNG PHƯỚC THU

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    "Đồng Khánh - mái trường xưa" là tên tập đặc san được phát hành tại Huế nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập trường Đồng Khánh vào đầu tháng ba này.

  • Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2020)    

    DƯƠNG HOÀNG

  • BỬU Ý    

    Ngược dòng thời gian, nhẩm tính lại, tôi gặp Nguyễn Đức Sơn lần đầu tiên lúc nào? Chắc hẳn là dịp tôi làm thư ký tòa soạn cho tạp chí Mai.