Đứa cháu đích tôn

16:01 29/01/2010
NGUYỄN AN CƯVừa mới ra giêng, bà Năm đã lăng xăng chuẩn bị đám giỗ cha chồng vào cuối tháng tư tới. 

Minh họa: Đặng Mậu Tựu

Ông Năm - chồng bà - hưởng phần đất hương hỏa mấy chục năm nay. Ông chết rồi, bà và con trai phải thay dòng họ cúng giỗ ông bà. Bà Năm chỉ có một mình thằng Tư là con trai. Sau khi tốt nghiệp đại học, nó làm việc, sinh sống ở thành phố mấy năm nay. Đám con gái lớn bà Năm đã lấy chồng, đi tứ tán hết; chỉ còn lại con Út, đang học lớp mười một, ở hủ hỉ với bà.

Nói hủ hỉ chứ thật ra bà với con Út như nước với lửa, như mặt trời với mặt trăng! Hễ bà nói, nó đáp lại chan chát hoặc bỏ đi. Tối ngày bà Năm lui cui, quanh quẩn hết trong nhà lại ra ngoài giồng. Con Út hở một chút thì xách xe đạp chạy mất dạng!

Mấy hôm rày bà Năm đi chợ mua thêm lúa, xắt thêm chuối cây trộn với cám để nuôi thúc mấy con vịt xiêm đôn lông. Bà nói với con Út:

- Họ bày với vú, lấy dây thun siết đứt dần hai cánh con vịt từ nhỏ và nhổ hết lông đuôi thì nó sẽ mập dữ lắm. Vú cũng thấy người ta làm rồi, con vịt nó mập cùi cụi hà; nó chạy lặc lè, nhưng vì hổng có cánh nên té tới té lui hoài. Vú thấy làm như vậy tội quá! Người ta vì miếng ăn rồi tự cho mình có quyền sinh sát và làm khổ con vật. Ở đời hễ mạnh thì hiếp yếu rồi bày đặt bảo là “vật dưỡng sinh, vật dưỡng nhơn”! Vú hổng muốn như vậy và cúng như vậy ông nội bây ổng cũng hổng có chứng đâu.

Con Út gạt ngang:

- Má cứ thương vớ vẩn! Nó là con vật, đâu có tình cảm gì. Má không thấy bây giờ người ta nuôi heo trong chuồng ép, tối ngày nó chỉ ăn rồi nằm ngủ, không xoay trở được gì cả; không bị mất năng lượng nên heo ú ì. Còn nuôi gà, bình thường họ không cho ăn; cầm con gà nhẹ hoe, lông không hà. Lúc đem đi bán, họ cố nhét vào bụng gà cả nải chuối, đầy tới cần cổ, trợn trắng con mắt, cho thêm nặng ký lô.

Bà Năm le lưỡi la lên:

- Ý trời ơi! Ác dữ vậy ha con?

Con Út làm giọng tài khôn:

- Vậy chứ sao! Có vậy mới lời.

Bà Năm chặc lưỡi than:

- Đời bây giờ hết nói nổi! Vì đồng tiền mà người ta làm những chuyện ác nhơn thất đức không gớm tay!                       

Mấy ngày liền, bà Năm xin phân rơm của ông Bảy kế bên nhà, đem về lên liếp trồng mấy giồng khổ qua. Con Út cằn nhằn:

- Má không khoa học gì cả! Phân heo, phân gà nhà mình thiếu gì, hốt trồng tốt hơn phân rơm nhiều…

Bà Năm cười và giải thích:

- Vú biết chứ! Nhưng trồng hoa quả cúng ông bà, vú muốn trồng bằng phân rơm để được thanh khiết.

Con Út lại lắc đầu:

- Tư tưởng má thật cổ lổ xỉ. Giỗ quải là cho người sống ăn chứ có ông bà nào về ăn mà làm quá trịnh trọng!

- Ăn hay không gì vú không biết nhưng vú tin rằng có ông bà về, có thế giới tâm linh rõ ràng chứ đâu phải không. Không thấy người ta ở đâu đâu mà chỉ đúng mộ liệt sĩ đó hay sao? Hồi ông bà còn sống, vú đối xử như thế nào thì bây giờ vú cũng giữ như vậy cho phải đạo. Nói như con hễ ai hết thời hoặc khuất mặt khuất mày thì không kính trọng à? Ăn ở phải thuỷ chung như nhứt chứ.

Nắng tháng hai như trút lửa xuống giồng cát. Mới mấy ngày nắng gió, rau cải héo xào! Ngày nào bà Năm cũng tưới mấy giồng khổ qua hai ba lần. Bà quải cặp thùng thiếc xuống giếng hộc, múc lưng lửng rồi lệch bệch gánh lên. Mới hơn mươi đôi nước, bà đi băng xiên băng nai, miệng thở hồng hộc; cái vòi hoa sen phun nước chệch ra ngoài giồng hoài!

Chiều chiều, bà Năm réo con Út cùng bà ra bắt sâu, thả chà; quấn vòi khổ qua vào chà cho nó bò. Bà cắt tỉa bớt mấy cái chèo phụ, chỉ chừa lại vài ngọn chính cho trái khổ qua thật to. Bà lảm nhảm với con Út:

- Ông nội bây hồi còn sống thích ăn khổ qua hầm lắm. Mà ruột khổ qua phải dồn bằng thịt vịt xiêm, thêm chút tép đất bằm nhuyễn, trộn với lòng trứng trắng cho dai mới được. Ờ… con phải nhớ mua một số tiêu hột, mà tiêu sọ mới được nghen. Ăn khổ qua hầm mà cắn được hột tiêu sọ thì nó cay cay, ngon không sao nói hết.

Con Út nhăn nhăn cắt lời bà:

- Con biết rồi! Năm nào má cũng nói đi nói lại mãi có bao nhiêu đó chán chết! Vịt gà, bánh trái, rau cải… bây giờ người ta bán thiếu gì. Bữa đó ra chợ mua là xong. Tiện hơn nữa là đặt nhà hàng người ta nấu ít bàn. Ở đó mà nuôi trồng nấu nướng cho cực khổ! Còn má hổng biết, ruột khổ qua hay bánh mứt muốn cho dai, cho dòn, cứ bỏ thêm vài muỗng hàn the vào là được; cần gì phải trộn thứ nầy thứ nọ?

Bà Năm lại la lên:

- Ý! Đâu được. Ông nội bây là thầy thuốc bắc; ổng nói hàn the ăn bệnh chết. Đừng có làm ăn bất nhơn như vậy nghen hôn. Còn giỗ quãi, đồ đạc kẹt lắm mới đi mua. Gà vịt, rau cải… phải chăm chút nuôi trồng để gởi gắm cái tình vào trong đó con à. Đám giỗ mà đặt ở nhà hàng, cúng cũng ở nhà hàng thì còn ý nghĩa gì; ông bà biết đường đâu mà đến? Ờ… con cũng nhớ tìm mua một mụt măng Mạnh Tông và một cái giò heo để nấu một nồi hầm; chiều bữa trước cúng tiên thường nhen. Hồi đó, trước khi mất, ông nội bây cũng ăn giò heo hầm măng Mạnh Tông…

Chà! Năm nay cái mòi mưa muộn nầy hổng biết chừng nữa có măng mọc hôn đây? Vú nhớ mà thương ông nội bây, ổng cầm một cục giò heo hầm nhai rầu rậu rồi gắp mấy lát măng cũng trắng phếu nhai tiếp. Nuốt thức ăn xong, ổng bưng ly rượu trắng uống một cái ực nghe mà phát thèm.

Con Út ngắt trái khổ qua đèo ném thật mạnh xuống mương như tống đi sự bực mình:

- Thôi mà! Má cứ lo nắng lo mưa hoài, cứ nhắc ba cái chuyện đời xưa mãi, nhức cái đầu quá!

Bà Năm dịu giọng lại:

- Con nhỏ nầy kỳ hôn! Thì vú nhắc cho mà nhớ; sau nầy vú có chết, tụi bây nhớ nấu cúng mấy món đó cho ông nội bây ổng vui. Tụi bây là cháu nòi, cháu đích tôn mà. Vú nói… tội nghiệp ông nội bây; có năm nhà mình nghèo, cả năm không mua giò heo nấu cho ông nội bây ăn lần nào! Bây giờ nhà mình khá giả rồi, tội nghiệp ổng hổng còn sống nữa!

Bà Năm ngưng lại, vén vạt áo chùi nước mắt và hỉ mũi rồn rột. Bà tiếp tục vừa kể vừa hít hít mũi:

- Tại tụi bây hổng biết, vú nói… hồi đó ông nội bây thương vú, thương tụi bây lắm. Vú dở ẹt hà! Đâu biết trồng trọt gì. Cầm cây cuốc còn hổng được mà! Về đây làm dâu, ổng dạy vú. Hai cha con lọ mọ trồng hết thứ nầy đến thứ khác; vú quen dần, mới được như bây giờ… Ổng tằn tiện, chịu cực chịu khổ lắm; nhờ vậy mới mua thêm được mấy công đất đó. Ổng nói để cho đời tụi bây bớt vất vả. Tối ngày làm lụng cực khổ mà hễ rảnh tay một chút là ổng ẵm tụi bây hun hít chùn chụt. Ổng đòng đòng thằng Tư trên vai trên cổ. Thằng Tư ráng mắt, bứt râu, ghị tóc mà ông nội bây cũng cười hề hề.

Bà Năm như sực nhớ, lại nhắc:

- Ờ! Con đã đánh điện nhắc anh Tư bây ở thành phố về chưa? Vú nhớ nó quá. Cả năm nay hổng có tin tức gì về nó hết. Làm ăn gì biệt xứ vậy hổng biết! Ờ! Nói chị hai bây mua nếp, xay bột phơi khô đặng gói vài trăm bánh ít ngọt, bánh ít trắng cho anh Tư bây ăn. Tội nghiệp! Ở thành phố chắc nó ít được ăn bánh ít lắm. Nói chị ba bây mua thịt heo kho tàu. Luộc thêm vài chục hột vịt bỏ vô nồi kho. Ông nội bây thích lắm…

Dứt câu, bà Năm quay lại, thì ra con Út đã bỏ vô nhà từ hồi nào mất dạng!                            

Mưa đầu mùa được ít đám là đến đám giỗ ông Sáu Lầu - cha chồng bà Năm.

Bà xay bột, xé lá chuối chuẩn bị gói bánh ít. Bà mua giò heo và măng Mạnh Tông để hầm. Bà mua thịt đùi, hột vịt để kho tàu… Dặn cháu con là dặn cho có chừng chứ bà đâu để đứa nào mua! Để tụi nó mua bà không yên tâm.

Ngày giỗ ông Sáu, dòng họ tề tựu đông đủ. Bà Năm sai vặt hết đứa con nầy đến đứa cháu khác. Trông bà chẳng khác nào vị tướng tài giỏi, tả xung hữu đột. Đám con gái, con rể, cháu chắt trong nhà xúm xít từ chiều hôm trước. Cánh đàn ông, đứa mượn bàn mượn ghế; đứa dọn dẹp bàn thờ, chưng hoa, chưng quả. Cánh đàn bà, gói bánh ít, làm cỗ, làm bánh… Tiếng dao thớt, tiếng cười nói ấm cả mái nhà thờ.

Nói là đám giỗ ông Sáu Lầu, thật ra, theo tục lệ người Việt Nam, bà Năm đã dọn năm mâm cỗ; cúng từ trời đất đến ông bà cha mẹ và cúng cả ông Năm. Bà bảo: “Có trời đất mới có ông bà. Có ông bà mới có cha mẹ và có mình. Có món gì ngon, món gì lạ đều cúng; mời hết ông bà cô bác về ăn mới phải đạo”.

Bà Năm dọn ở giữa sân một mâm cúng trời đất, hai mâm ở bộ ván giữa cúng ông bà, một mâm ở bàn thờ ông bà Sáu Lầu và một mâm ở bàn thờ ông Năm. Bàn thờ chật cứng thức ăn mà bà cũng cố chất vào, không cho bỏ sót món nào.

Bà Năm mặc chiếc áo dài the đen đã sờn vai, đốt nhang đi từng bàn thờ, từng mâm cỗ, lâm râm cúng vái. Bà rót nước mời ông bà súc miệng, mời ông bà về ăn cơm; chốc chốc bà lại rót một tuần rượu và khoanh tay lim dim mắt đứng hầu.

Tàn hơn nửa cây nhang, bà cúng nước và trái cây. Bà kêu tất cả con cháu phải lên trước bàn thờ cúng vái ông bà. Mấy đứa cháu nhỏ của bà đứng mấy hàng ở phía sau, chen lấn, xô đẩy, xá vào lưng của nhau, cười khúc khích hoài. Có đứa cháu mới lên năm lên sáu cũng tròng chiếc áo dài của chị nó rộng thùng thình, tay áo dài thượt; miệng cười toe toét, trông giống như ông địa đang múa!

Trên bàn thờ, các mâm cỗ đã nguội ngắt. Cây nhang cao nghệu cũng đã tàn mà thằng con trai thứ tư của bà Năm - tức đứa cháu đích tôn của ông Sáu Lầu - vẫn chưa về. Bà Năm đi lên đi xuống; hết nhìn lên bàn thờ lại nhìn ra cổng. Bà quay tìm con Út, hỏi lại:

- Con đã điện nhắc đám giỗ cho anh Tư con chưa?

Con Út nhăn nhó:

- Con đã điện rồi mà! Má hỏi mãi!

- Mà có gặp trực tiếp anh Tư con hôn?

Con Út giậm chân, mặt nhăn như khỉ:

- Có! Ảnh còn hỏi “Vậy hả? Vậy mà tao tưởng tháng sau”.

Nhìn khách khứa đông đảo, bà Năm ái ngại, lảm nhảm: Cái thằng nầy! Đám giỗ ông nội mà cũng hổng nhớ ngày!

Bỗng có tiếng xe máy xình xịch ngoài đầu xóm. Mọi người nhốn nháo lắng nghe. Mấy đứa cháu kêu lên: “Chắc cậu Tư về tới”.

Đúng như thế. Chỉ vài phút sau, năm sáu chiếc xe máy bóng lộn chạy thẳng vào sân nhà. Xe Cup có, xe Wave có, xe Dream có… Tất cả năm sáu người đàn ông và hai ba người con gái…

Thằng Tư - con bà Năm - năm nay gần ba mươi tuổi. Nghe nói sau khi tốt nghiệp đại học, nó làm trong một công ty gì đó ở thành phố. Năm trước nó về bán mấy công đất của ông Năm để cất nhà. Năm rồi lại về bán tiếp mấy công đất hương hỏa để mua xe. Bà Năm cản hết sức cũng không được. Bà giải thích cho nó “Đất hương hỏa là đất chung, để thờ cúng, giỗ quãi ông bà. Bán đất hương hỏa mua xe riêng, lại xe đắt tiền, coi không được”. Ngặt nỗi từ khi ông Năm mất, thằng Tư đứng tên đất; bà khóc hết nước mắt vẫn không cản được nó!

Thằng Tư và các bạn dựng xe đi vào nhà. Mùi thuốc thơm của đàn ông và mùi nước hoa của phụ nữ thơm phức. Cả nhà đổ mắt về họ. Mấy đứa cháu gái bà Năm chăm chú, trầm trồ mấy sợi dây chuyền, mấy chiếc lắc lóng lánh trên cổ trên tay các cô gái. Bà Năm đốc thúc con cháu dọn bàn.

Thằng Tư giậm chân đùi đụi lên thềm cho rớt bớt mấy cục sình bám dưới đế giày. Nó càu nhàu: “Đường sá làng mình bây giờ tệ thật! Mới mưa mấy đám mà ổ gà ổ voi cả. Hổng biết mấy cha uỷ ban xã nầy tối ngày làm gì mà không lo tu bổ gì cả? Mời… mời các anh, các cô ngồi. Đấy!... Đấy!... Ghế nầy… Ghế nầy.”

Bà Năm xuống nhà dưới bưng dĩa trái cây nhớn nhác chạy lên. Bà dang tay định ôm chầm đứa con trai lâu ngày không gặp. Bà chợt khựng lại khi thấy thằng Tư mặc chiếc áo trắng tinh, trên cổ lại có thắt cái cà vạt lòng thòng. Bà lớ ngớ phủi hai tay như bà đã làm lấm áo con. Mắt bà ươn ướt, miệng lắp bắp:

- Con… con và… các cháu mới về? Mà sao con về trễ quá vậy?

Tư ngước lên nhìn mẹ, nhe răng cười:

- Hôm qua, nghe con Út điện nhắc nhà có đám giỗ, con mới sực nhớ. Sáng ra còn chạy lòng vòng mời mấy anh chị em đây, hơn chín giờ mới khởi hành.

Bà Năm khều vai Tư nói vào tai nó:

- Con nói nho nhỏ, mấy chú nghe được giận con đa! Đường sá quê mình như vậy là tốt hơn mấy xã khác rất nhiều. Mấy chú, mấy anh ở xã cực lắm chứ bộ. Trăm dâu đổ đầu tằm mà lương bổng có gì đâu!

Tư thấy mẹ mặc chiếc áo dài lượm thượm, bạc phếch vội cằn nhằn:

- Có khách khứa mà má cũng không chịu thay áo mới nữa!

Bà Năm vội chạy vào buồng thay cái áo, gỡ lại cái đầu rồi ra đứng sau lưng Tư. Bà nhìn chằm chặp vào lọn tóc xoăn của nó, chỉ chực đưa tay lên vuốt như thời thằng Tư còn bé. Thấy mẹ đã tươm tất, Tư liền giới thiệu những người lớn trong gia đình với bạn bè:

- Đây là má tôi. Đây là chú Tám, chú họ nội, phó chủ tịch uỷ ban huyện nầy. Đây là anh Bảy, đầu ông cố với tôi, trưởng phòng tài chính huyện. Đây là anh Sáu, cùng đầu ông sơ, phó phòng giáo dục huyện…

Tư đảo tay một vòng bạn bè, giới thiệu chung với gia đình – Đây là anh em, bè bạn làm chung công ty. Xin mời chú Tám, anh Bảy, anh Sáu ngồi chung bàn với tụi tui.

Bà Năm lại kề tai Tư nói nhỏ:

- Sao con hổng giới thiệu và mời anh hai, anh ba con và mấy cháu trai lớn cùng ngồi cho vui. Anh em, cậu cháu lâu ngày mới gặp. Tội nghiệp, tụi nó vất vả từ hôm qua.

Tư nhìn xuống bàn hai người anh rể và mấy cháu. Mấy cái tóc mới hớt, mấy cái áo trắng mới tinh không ủi càng làm lộ rõ nước da đen sì và vẻ quê mùa của họ hơn. Tư do dự rồi bảo mẹ:

- Thôi má à, bàn nầy không được đâu. Để mấy ảnh ngồi chung ở sau với mấy đứa nhỏ.

Bà Năm thoáng buồn, lẳng lặng nép sang một bên.

Tư trở ra xe, khệ nệ ôm mấy thùng bia lon vào và gọi lớn:

- Má bảo tụi nó mang ly và chặt nước đá giùm.

Bà Năm chỉ tay bảo:

- Ủa! Vú có mua rượu đế mà con.

Tư nhăn mặt:

- Ba cái rượu đế uống đứt ruột đứt gan hết!

Một ông bạn sồn sồn quay qua Tư đề nghị:

- Xin phép anh Tuấn cho tôi đốt cây nhang cúng ông bà.

Mắt bà Năm chợt sáng lên; bà vỗ vai Tư, cười móm mém nói:

- Vú thấy phải à Tư. Con cũng đốt cây nhang cúng ông nội và ba con.

Tư ra dấu cho người bạn ngồi xuống và bảo:

- Thôi, thôi. Khỏi mà! Hình thức cả.

Tư đứng dậy ghé vào tai bà Năm, nhăn nhăn mặt:

- Trời ơi!... Má bỏ giùm cái tiếng “vú” và cái tên “Tư” đi. Họ cười chết!

Bà Năm chợt nhớ, lấm lét nhìn các bạn của con rồi sượng sùng bụm miệng. Bà xoay qua bàn thờ, bưng hai dĩa bánh ít xuống, bảo:

- Các cháu ăn với bác mỗi đứa vài cái bánh ít. Hồi hôm bác thức tới khuya để hấp đó. Có ăn bánh ít mới đúng là đi ăn đám giỗ. Nhớ bánh ít trắng có râu nghen, bánh ít ngọt thì hổng có.

Tư nhìn hai dĩa bánh đưa tay ngăn lại:

- Không được đâu má. Dính tay và quần áo hết! Cũng đâu có quí giá gì mà mời không biết nữa!

Bà Năm xớ rớ một lúc, bưng hai dĩa bánh dẹp sang bàn kế bên…

Tư nhìn mâm cỗ cằn nhằn bà Năm:

- Má cũng làm hai cái món khổ qua hầm và thịt heo kho tàu nầy hoài! Con đã nói là nó xưa lắm rồi và con cũng không thích mà. Tư đứng dậy tiến đến bàn thờ lấy hai trái cam đang chưng đưa cho hai cô bạn gái lột.

Bà Năm thấy con không hài lòng nên buồn hiu nhưng cũng gượng làm vui bảo con:

- Ừ, để năm tới vú … í … má sẽ đổi món khác.

Bà lại vội vàng bụm miệng vì giật mình nhớ lại cách xưng hô mà Tư không vừa lòng. Hồi nhỏ, đám con bà Năm đều gọi bà bằng “vú”, mấy năm nay chúng mắc cỡ, đều tự động đổi lại là “má”, chỉ riêng bà thì chưa đổi được!

Tư lốc bốc khui mấy lon bia, ném vỏ ra sân và đứng dậy tuyên bố:

- Hôm nay nhân đám giỗ ông già, tôi mời các bạn xuống nhà dùng bữa giỗ, đồng thời cho biết nhà luôn thể…

Mấy đứa cháu nhỏ chỉ chờ có phút nầy là vội chạy ào ra sân giành giựt mấy vỏ bia. Bà Năm nghe con trai nhắc mấy tiếng “đám giỗ ông già” giật thót người. Bà đưa tay ra trước mặt Tư khoác tía lia tía lịa; miệng ú ớ mãi.

Tư không biết mẹ định nói gì. Nó đốc thúc bàn tiệc: “Xin mời anh em nâng ly! Trăm phần trăm nhé”.

Bà Năm trân trối nhìn con và khách, miệng lép nhép. Những tiếng “dơ, dơ” át mất tiếng lép nhép ú? của bà…

N.A.C
(251/01-2010)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • KIỀU VƯỢNGĐêm giữa thu. Hà Nội se lạnh. Sao chới với nhưng mây vẫn vũ làm nền trời như khô khốc, nhạt nhòa. Một hồi còi tàu rú dài như thả thêm vào đêm luồng khí lạnh. Quang nhìn đồng hồ sân ga dã quá mười hai giờ khuya.

  • CAO HẠNHTôi sinh ra ở làng quê, lớn lên cũng ở làng quê. Tôi là hạt máu đỏ rơi xuống bùn đất mọc lên một thằng người cùng với ngọn cỏ lá rau, cây lúa và những sinh linh khác. Tôi cùng chịu đựng chia xẻ với chúng ngọn gió Lào cát trắng và những trận mưa dầm dề của xứ miền Trung khắc nghiệt.

  • HỒ ANH THÁI Tác giả thấy cần phải tóm tắt chuyện cô bé quàng khăn đỏ trước, rồi mới kể tiếp phần hậu cô bé quàng khăn đỏ. Con sói đến lừa bà cô bé, nuốt sống bà, rồi mặc váy áo của bà, trùm khăn giả vờ làm bà. Cô bé về nhà, thấy bà rởm mà không biết, cứ hỏi vớ hỏi vẩn sao tai bà to thế, sao mắt bà to thế, sao mồm bà to thế. Sốt ruột. Con sói bèn nuốt chửng luôn cô bé. Nhưng rồi quần chúng tiến bộ tập hợp lại đấu tranh, con sói phải nôn cả bà lẫn cháu ra, hứa cải tà quy chính. Từ đây bắt đầu phần hậu cô bé quàng khăn đỏ…

  • PHẠM XUÂN PHỤNGHọ như không còn trẻ. Người lớn tuổi hơn có khuôn mặt thanh thản vì đã giãn mềm những nếp nhăn. Người trẻ tuổi khuôn mặt nhuốm già bởi màu từng trải và những nét khắc chán chường.

  • MAI HUY THUẬTNằm cuộn tròn trong cái rọ lợn Cuội mới có thì giờ ngẫm nghĩ về cái thân phận của mình. Cả cuộc đời dối trá, lừa gạt bây giờ bị tù hãm sau mấy cái nan tre tưởng như mong manh thế mà càng cựa quậy càng trầy da rách áo, không thể nào thoát được.

  • NGUYỄN VĂN VINH Thường thường, mỗi sớm tôi và các bạn gặp nhau ở quán cà phê vỉa hè. Ngồi vệ đường, không tiếng nhạc quấy phá phút tĩnh tâm để ngẫm ngợi sự đời, quả thú vị! Tôi biết các loại quán đều tiêu phí thời giờ của mình, nhưng quán cà phê ít tốn, ít nguy hiểm hơn quán bia ôm và các toan tính, bon chen trong vòng danh lợi gươm đao nên tôi không bỏ uống cà phê buổi sáng, ngày mình giết một tí, lại được chuyện vãn với nhau: nào thời sự, tin tức trên trời dưới biển, cũng vui!

  • LINH CHIKhi chỉ mới là giọt máu, sự kết hợp của hai nhiễm sắc thể XY bám vào dạ con của mẹ, nó đã không được công nhận. Chào đời, mẹ con nó ở với ông bà ngoại cùng các cậu, các dì cho đến năm nó tròn bảy tuổi. Nhà ngoại nó ở ven triền núi của vùng đồi miền trung du hẻo lánh độ chừng vài ba chục nóc nhà rải rác trên mấy quả đồi đầy hoa sim, hoa mua tím. Chiều chiều nó thường hay tha thẩn trước sân nhà ngắm nhìn những đàn chim bay về tổ, thả hồn theo những đám mây màu cánh vạc đùn lên phía sau dãy núi đối diện nhà ngoại và tưởng tượng, ước ao…

  • TRẦN CHINH VŨAnh nghĩ là mình có thể ngủ được trong đêm nay - ngủ ngon là khác nữa - Đêm qua anh đã ít ngủ rồi - Hơn nữa, cùng với cậu em trai anh lại vừa có cuộc đi chơi đêm ở công viên Đầm Sen, đến muộn mới về. Vậy mà cho đến lúc này, đã qua nửa đêm được ít phút, mắt anh vẫn cứ trơ ra, cứ như thể nó chưa biết khép lại bao giờ.

  • ĐÔNG TRIỀUMười hai giờ đêm.Tôi bước ra khỏi rào lưới sắt còn ngoảnh lại nhìn căn trọ, nơi cửa sổ vẫn phụt ra luồng sáng trắng bởi đèn điện. Tất cả đã im lặng. Tiếng cót két của đôi cánh cửa gỗ mà người thiếu phụ vừa khép lại hòa vào nhịp rơi lộp độp của những giọt sương trên lá, tiếng côn trùng trỗi lên cùng thanh âm mà con chim cú đâu đây vẫn bỏ tiếng rúc đều đều nghe rợn người.

  • PHẠM NGỌC TÚY“Ngày...tháng...nămDòng nhắn tin trên báo cho em biết rằng em đã tìm thấy anh. Cuối cùng thì chúng mình cũng nhận ra nhau. Anh thân yêu. Hôm nay trời không mưa và không nắng. Từ cửa phòng em nhòm ra có một cây trạng nguyên. Cây này nhô lên cao giữa khoảng trời xanh hiếm hoi. Những chiếc lá đến mùa, đỏ thắm màu xác pháo. Nó là cây hoa độc nhất ngoài cửa phòng em.

  • NGUYỄN BẢNHắn đến tôi, mặt thẫn thờ ngơ ngác như người vừa mất của. Tôi hỏi ngay:- Có chuyện gì vậy?- Không, không có chuyện gì.

  • ĐÔNG LA       Sài Gòn mùa mưa, trời lúc nào cũng âm u. Những tán cây sẫm hơn, không khí nóng rát của những tháng cuối mùa khô đã được làm nguội lại, dịu mát. Mấy ngôi nhà cao lênh khênh dường như chỉ cần kiễng chân lên một chút là có thể gội đầu được trong những đám mây sũng nước, là là bay trên đầu.

  • ĐÀO PHONG LAN         Tôi là đứa con gái duy nhất của cha mẹ, và trời cũng ban cho tôi một nỗi bất hạnh để tương xứng với niềm hạnh phúc của một đứa con chắc chắn được cưng chiều: Tôi bị liệt hai chân từ bé.

  • MAI HUY THUẬTCon tàu Thống nhất nhả Văn xuống ga Huế vào một trưa mưa tầm tã khiến Văn chợt thấm thía một câu thơ Tố Hữu:...“ Nỗi niềm chi rứa Huế ơiMà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên?”...

  • NGUYỄN VĂN THANHSau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi không ngờ được Ngọ hỏi làm vợ. Không giống như những cô dâu khác, ngày tôi về nhà chồng có dắt theo một đứa con riêng. Tên nó là Hòa. Ngọ rất thương yêu hai mẹ con tôi. Không có gì đáng trách anh ấy dù cuộc hôn nhân của chúng tôi không bình thường.

  • NGUYỄN LÊ VÂN KHÁNHTôi xa nhà trọ học thành phố khác. Dịp nghỉ ngắn ngày không về nhà được, tôi đón xe về thị trấn men con nước nhánh sông lớn về nhà ngoại. Từ ngoài ngõ con Bơ sủa váng, Vinh chạy ra ôm bụi chè tàu nơi đầu bến nước, gọi mạ ơi, Sương về.

  • NGUYỄN HÙNG SƠN          Một buổi chiều cuối tháng ba trong lúc ngồi bón cháo cho chồng, bà Loan nhận thấy hôm nay Hào, chồng bà có những biểu hiện khác thường. Ông có vẻ suy nghĩ, ăn uống uể oải.

  • LỆ THANHBé Khánh Hạ - đứa con gái duy nhất của chị đã đi! Chiếc lá xanh độc nhất trên thân cây khô héo, khẳng khiu đã lìa cành. Ngọn lửa cuối cùng trong đêm dài trơ trọi của chị đã tắt ngấm trong bỗng chốc. Chị tưởng rằng mình sẽ không thể sống nổi trên cõi đời héo hắt này nữa.

  • HOA NGÕ HẠNHHọ Nguyễn ở Trung Lộc quê gốc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, Thanh Hóa. Gia phả ghi rõ, ông tổ của dòng họ theo chân Chánh đô An phủ sứ Phạm Nhữ Dực vào khai khẩn đất Thăng Hoa năm 1402. Ban đầu họ Nguyễn định cư tại Hương Ly. Đến đời sau, một nhánh trong tộc chuyển hẳn lên Trung Lộc, nằm ở thượng lưu sông Thu Bồn.

  • Đàm quỲnh NgỌcChiều nay, tôi nhận được điện khẩn của Tâm, bức điện vỏn vẹn chỉ có dòng chữ: “Thứ bảy tới, tao đi Hoa Kỳ, mày tới gấp”. Tôi không ngạc nhiên khi biết Tâm đi Hoa Kỳ, với nó, đi nước ngoài đã trở thành bình thường như các bà đi chợ. Tôi chỉ ngạc nhiên khi Tâm đã điện khẩn cho tôi, điều mà từ trước đến nay chưa bao giờ có.