Đốt lò hương, so phím đàn...

07:58 06/12/2013

PHẠM QUỲNH

Dưới đây là bài diễn văn của Phạm Quỳnh trong ngày giỗ thi hào Nguyễn Du ngày 8 tháng 12 năm 1924. Tòa soạn xin phép lược trích và đặt lại đầu đề gửi đến độc giả.

Ảnh: internet

Hôm nay là ngày giỗ cụ Tiên-điền Nguyễn Tiên-sinh, là bậc đại-thi-nhân của nước Nam ta, đã làm ra bộ văn-chương tuyệt-tác là truyện Kim-Vân-Kiều.

Ban Văn-học Hội Khai-trí chúng tôi muốn nhân ngày giỗ này đặt một cuộc kỷ-niệm để nhắc lại cho quốc-dân nhớ đến công-nghiệp[1] một người đã gây- dựng cho quốc-âm ta thành văn-chương, để lại cho chúng ta một cái “hương hỏa” rất quý - báu, đời đời làm vẻ-vang cho cả giống-nòi.

Chúng tôi thiết-nghĩ một bậc có công với văn-hóa nước nhà như thế, không phải là ông tổ riêng của một nhà một họ nữa, mà là ông tổ chung của cả nước; ngày giỗ ngài không phải là ngày kỷ-niệm riêng của một nhà một họ nữa, chính là ngày kỷ-niệm chung của cả nước.

Hiện nay suốt quốc-dân ta, trên từ hàng thượng-lưu học-thức, dưới đến kẻ lam-lũ làm ăn, bất-cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết truyện Kiều, ai ai cũng thuộc truyện Kiều, ai ai cũng kể truyện Kiều, ai ai cũng ngâm truyện Kiều, như vậy thời ai ai cũng đều hưởng cái công-nghiệp của Cụ Tiên- điền ta, ai ai cũng phải nhớ ngày giỗ Cụ và nghĩ đến cái ơn của Cụ tác-thành cho tiếng nước nhà.

Muốn cảm cái ơn ấy cho đích-đáng, hẵng thử giả-thiết Cụ Tiên-điền không xuất-thế[2], Cụ Tiên-điền có xuất-thế mà quyển truyện Kiều không xuất-thế, quyển truyện Kiều có xuất-thế mà vì cớ gì không lưu-truyền, thời tình-cảnh tiếng An-Nam đến thế nào, tình-cảnh dân-tộc ta đến thế nào?

Văn-chương người ta thiên kinh vạn quyển, dẫu có thiếu mất một quyển cũng chẳng hại gì. Văn-chương mình chỉ độc có một quyển, vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh-thư[3] Phúc-âm[4] của cả một dân-tộc, ví lại khuyết nốt thì dân-tộc ấy đến thế nào?

Than ôi! mỗi lần nghĩ tới mà không khỏi rùng mình, chột dạ, sửng-sốt, rụng- rời, tưởng như hòn ngọc ở trên tay bỗng rơi xuống vỡ tan-tành vậy. Rồi mới tỉnh ra, sực nhớ đến mấy câu Kiều, vỗ bàn đập ghế, gõ dịp[5] rung đùi, lên giọng cao- ngâm: “Lơ-thơ tơ liễu buông mành,/ Con oanh học nói trên cành mỉa-mai”, hay là: “Phong-trần mài một lưỡi gươm,/ Những phường giá áo túi cơm xá gì” bỗng thấy trong lòng vui-vẻ, trong dạ vững-vàng, muốn nhẩy muốn múa, muốn reo muốn hò, muốn ngạo-nghễ với non sông mà tự-phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!...

Có nghĩ cho xa-xôi, cho thấm-thía, mới hiểu rằng truyện Kiều đối với vận-mệnh nước ta có một cái quý-giá vô-ngần.

Một nước không thể không có quốc-hoa, Truyện Kiều là quốc-hoa của ta; một nước không thể không có quốc-túy, truyện Kiều là quốc-túy của ta; một nước không thể không có quốc-hồn, truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều là cái “văn-tự”[6] của giống Việt-Nam ta đã “trước-bạ”[7] với non sông đất nước này. Trong mấy nghìn năm ta chôn rau[8] cắt rốn, gửi thịt gửi xương ở cõi đất này, mà ta vẫn hình như một giống ăn trọ ở nhờ, đối với đất nước non sông vẫn chưa từng có một cái văn-tự văn-khế phân-minh, chứng-nhận cho ta có cái quyền sở-hữu chính-đáng. Mãi đến thế-kỷ mới rồi mới có một đấng quốc-sĩ[9], vì nòi-giống, vì đồng-bào, vì tổ tiên, vì hậu-thế, rỏ máu làm mực, “tá-tả”[10] một thiên văn-khế tuyệt-bút, khiến cho giống An-Nam được công-nhiên[11], nghiễm- nhiên[12], rõ-ràng, đích-đáng làm chủ-nhân-ông một cõi sơn-hà gấm vóc.

Đấng quốc-sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên-điền ta vậy. Thiên văn-khế ấy là gì? Là quyển truyện Kiều ta vậy.

Gẫm trong người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!

Báu ấy mà lọt đến tay ta, thật cũng là một cái phúc-duyên cho ta, nhưng báu ấy ở trong tay Cụ lại chính là một cái túc duyên[13] của Cụ. Thiên văn-tự tuyệt-bút kia là gồm bao nhiêu giọt máu, bao nhiêu giọt lệ kết-tinh lại mà thành ra, những khi đêm khuya thanh-vắng vẫn thường tỉ-tê thánh-thót trong lòng ta, như “Giọt sương gieo nặng cành xuân la-đà” vậy.

Cái áng văn-chương tuyệt-tác cho người đời đó, an-tri lại không phải là một thiên lịch-sử thống-thiết của tác-giả?

(...)

P.Q
(SH297/11-13)


....................................
[1] công nghiệp: Công lao và sự nghiệp đối với xã hội; [2] xuất thế: ra đời, nói một cách trân trọng; [3] Thánh thư: sách Thánh; [4] Phúc âm: Tin lành; [5] dịp: nhịp; [6] văn tự: giấy tờ do hai bên thỏa thuận ký kết mua bán; [7] trước bạ: đăng ký văn tự với một cơ quan nhà nước để có tính pháp lý; [8] rau: nhau; [9] quốc sĩ: người tài nổi tiếng trong cả nước; [10] tá tả: viết dùm người khác; [11] công nghiên: một cách công khai; [12] nghiễm nhiên: (thực hiện) một cách tự nhiên và đàng hoàng, điều mà trước đó không ai ngờ; [13] túc duyên: duyên sẵn từ kiếp trước.






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    “Cảo thơm lần giở trước đèn”, mấy trăm năm qua rồi vẫn còn thơm giữa chốn trần ai bao nỗi. Đọc truyện Kiều, thấy một đại thi hào của dân tộc lặng lẽ trong cô phòng, bên bàn văn ươm những vần thơ gieo về bãi bể nương dâu.

  • LÊ QUANG THÁI

    Nguyễn Du (1766 - 1820) tự Tố Như, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xưa thuộc trấn Nghệ An.

  • THÁI KIM LAN

    Của tin, gọi một chút này làm ghi
    (Nguyễn Du, Đoạn trường tân thanh)

  • ĐẠI LÃN

    Viết về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến Phật giáo thì đó là một thiếu sót quan trọng, vì phần lớn sự nghiệp văn thơ của cụ đều phát xuất từ quan điểm này để từ đó cụ gởi gắm tâm sự của cụ lại cho hậu thế.

  • NGUYỄN CẨM XUYÊN

    Sau khi đọc và đem khắc ván in Kim Vân Kiều tân truyện ở phố Hàng Gai - Hà Nội, Phạm Quý Thích - bạn của Nguyễn Du - có viết bài “Thính Đoạn Trường Tân Thanh hữu cảm”(1).

  • Trần Hạ Tháp - Nguyễn Thị Việt Nga - Nguyễn Việt Chiến

  • BẠCH LÊ QUANG

    Phong trần cõi Đạm là tiên
    Thanh cao trời tặng giấc thiền tử sinh
    Khóc Người chịu nhẫn, khóc mình?
    Trăm năm còn một chữ tình gió mây.

                                              (LHL)

  • MAI VĂN HOAN

    Trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong văn chương, nhiều người thường sử dụng cách nói ẩn dụ và tỉnh lược. Điều đó góp phần làm cho ngôn ngữ trở nên đa nghĩa, linh hoạt, biến hóa nhưng cũng gây không ít phiền hà, rắc rối vì đôi khi hiểu nhầm, hiểu sai chủ ý của người nói, người viết.

  • THÁI DOÃN HIỂU

    Vị thủy tổ của ba thi hào họ Nguyễn: Nguyễn Trãi - Nguyễn Du - Nguyễn Đình Chiểu là Thái tể triều Đinh, Định Quốc công Nguyễn Bặc.

  • LGT: Năm 1965, kỷ niệm 200 năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du, bác  sĩ Nguyễn Khắc Viện đã “Giới thiệu Truyện Kiều” bằng tiếng Pháp; sau này  được tác giả Lưu Huy Khánh chuyển qua Việt ngữ. Qua sự giúp đỡ của gia  đình bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Sông Hương lược đăng bài viết chưa được  phổ biến rộng rãi này.