Đôi nét về chuyện cười và truyện cười

11:21 13/05/2008
Khi sử dụng một khái niệm cơ bản, nhất là khái niệm cơ bản chưa được mọi người hiểu một cách thống nhất, người ta thường giới thuyết nó.

“Truyện cười” là một khái niệm cơ bản, nên trong quá trình nghiên cứu nó, không thể bỏ qua thao tác logic sơ đẳng ấy.
Trong các giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, trước kia cũng như hiện nay, truyện cười được coi là một loại truyện, và dĩ nhiên là truyện dân gian, nên khi giới thuyết khái niệm này, nhiệm vụ chủ yếu và gần như duy nhất của các nhà nghiên cứu là chỉ ra dấu hiệu tiêu biểu để tách nó ra khỏi những loại truyện dân gian khác ( như truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn...), đó là yếu tố gây cười. Trong giáo trình Văn học dân gian Việt , GS Đinh Gia Khánh viết: “ Truyện cười, nó một cách đơn giản, là truyện làm cho người ta cười (...). Trong truyện cổ tích cũng đã có nhiều yếu tố gây ra tiếng cười(...). Song tiếng cười ở đây chỉ có vai trò điểm xuyết, làm cho truyện thêm duyên dáng, đậm đà mà thôi chứ không chiếm vị trí trung tâm trong sự phát triển của truyện. Giữa truyện ngụ ngôn và truyện cười thì có sự thâm nhập sâu hơn. Một số truyện vừa có thể coi là truyện ngụ ngôn mà lại vừa có thể coi là truyện cười (...). Tuy nhiên, truyện ngụ ngôn không nhằm mục đích gây ra tiếng cười. Truyện cười trái lại bao giờ cũng nhằm mục đích ấy. Đằng sau mục đích gây ra tiếng cười có thể còn mục đích khác sâu sắc hơn. Nhưng trước hết phải đạt mục đích gây cười đã” (1)
Với cách hiểu này thì “truyện” nói chung và “truyện dân gian” nói riêng được coi như là những khái niệm có sẵn, ổn định, không có gì đáng bàn cãi.
Thế nhưng thời gian gần đây, trong việc sử dụng thuật ngữ lại có hiện tượng, cái mà từ trước tới nay gọi là truyện dân gian thì một số nhà nghiên cứu gọi là chuyện dân gian. Chẳng hạn mới đây, trong bài báo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 6- 2000, một học giả viết: “Tôi gọi là chuyện những câu chuyện dân gian, chuyện hoang đường, kể một cách hồn nhiên, chuyện cổ tích, chuyện truyền thuyết, chuyện thần kỳ, chuyện tiếu lâm... (2).
Trong Từ điển tiếng Việt 2000 (Hoàng Phê chủ biên), “truyện cười” được định nghĩa là “chuyện kể dân gian dùng hình thức gây cười để giải trí, hoặc để phê phán nhẹ nhàng”.
Tuy đây chỉ là cách hiểu thông thường về khái niệm “ truyện cười”, song vẫn là một quan niệm đáng được tham khảo.
Điểm đáng lưu ý là khoảng vài thập kỷ nay, trên các sách, báo xuất hiện hàng loạt những mẩu đối thoại cười, lúc đầu dĩ nhiên cũng có tên người sáng tác hẳn hoi, nhưng dần dà, trong số này nhiều mẩu chuyện hay đã được dân gian hóa, góp phần bồi đắp cho kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam ngày một phong phú hơn thêm. Xin dẫn ra vài ví dụ:
TƯƠNG TỰ
Trong giờ toán, thầy giáo lấy một ví dụ về đại lượng tỷ lệ nghịch:
- Một người xây một bức tường thì hết ba ngày. Vậy ba người cùng xây bức tường đó thì hết một ngày.
Sau đó, thầy yêu cầu học sinh tìm một ví dụ tương tự. Một học sinh phát biểu:
- Thưa thầy, một người bơi qua một khúc sông thì hết ba phút. Vậy ba người cùng bơi qua khúc sông ấy thì hết một phút ạ!
TỔNG THỐNG MỚI
Con trai hỏi bố:
Bố vẫn thường nói, mỗi gia đình là một quốc gia nhỏ, vậy bố là gì?
Là tổng thống.
Còn mẹ?
Là chính quyền.
Bà?
CIA
Còn con?
Con là nhân dân
Nói xong, bố cắp cặp đến công sở. Một lát sau, ông nhận được điện của con trai:
- Thưa tổng thống, hiện nay chính quyền vừa có một tổng thống mới, CIA thì đang ngủ, còn nhân dân thì hết sức lo lắng!
Đặc biệt, trong mảng này có những sáng tác rất ngắn, và đây chính là “ trung tâm rắc rối” của việc xác định ranh giới giữa hai khái niệm “ chuyện” và “ truyện” mà chúng tôi muốn đề cập trong bài viết nhỏ này. Ví dụ:
VÔ Ý
Mãi tới chiều người chồng mới về tới nhà, dáng uể oải, trách vợ:
- Em thật vô ý hết chỗ nói! Bảo đi họp phụ huynh cho con mà không nói rõ nó đang học ở trường nào.
MỐI TÌNH ĐẦU.
Sau khi chia tay với người yêu, nàng nói với chàng:
- Đây là lần thứ năm em hiểu rằng mối tình đầu của phụ nữ không bao giờ đi đến hôn nhân
 Một câu hỏi đặt ra là: Có nên coi hai tiểu phẩm hài trên đây là truyện cười hiện đại không?
Chúng tôi nghĩ rằng, gọi một văn bản tự sự dân gian nào đó là “chuyện” hay “truyện” có khi tùy thuộc vào quan niệm. Song nếu gọi là “chuyện” để phân biệt mức độ đậm- nhạt, cao- thấp về tính văn học giữa loại văn học dân gian với văn học bác học, có lẽ không cần thiết, bởi vì từ hai chữ “dân gian” trong cụm từ “văn học dân gian”, ta đã có thể suy ra điều đó. Chính vì thế mà hiện nay, trong các giáo trình Văn học dân gian Việt Nam cũng như Từ điển văn học Từ điển thuật ngữ văn học, chưa thấy ai gọi “truyện dân gian” là “chuyện”. Và theo đó, có thể nói, “truyện dân gian” vẫn là khái niệm được sử dụng phổ biến trong giới nghiên cứu ở nước ta.
Tuy nhiên, những đối thoại và những mẩu thoại cười tương tự như chúng tôi và dẫn ra trên có phải là truyện cười hay không lại là điều đang được nhiều người quan tâm. Điều này lại liên quan đến khái niệm “truyện”. Tức vấn đề đặt ra không phải xác định xem nó có phải là truyện cười hay không (trong quan hệ với truyện cổ tích , truyện ngụ ngôn...) mà ở chỗ nó có phải là “truyện” hay không. Theo chỗ chúng tôi biết, hiện nay, các quyển Từ điển thuật ngữ văn học” của ta chưa có định nghĩa nào bao quát hết tất cả những cái mà trong thực tế được gọi là truyện. Chẳng hạn, Từ điển văn học cho rằng truyện “ có hai thành phần chủ yếu là cốt truyện và nhân vật” (3). Còn Từ điển thuật ngữ văn học lại khẳng định dứt khoát hơn: truyện “bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là một hệ thống nhân vật” (4). Nhưng thực tế “có khá nhiều truyện không có cốt truyện và cũng không có nhân vật, hoặc nhân vật mờ nhạt như một số truyện của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, truyện của Camus, Kafka J.P. Sartre..v.v... vẫn là truyện” (5)
Đó là truyện ngắn hoặc truyện vừa. Còn truyện cười thì sao?
Trong mục “ Cùng bạn đọc” của cuốn Truyện cười hiện đại, Lê Ngọc Tú và Nguyễn Sông Thao viết:
“ Truyện cười có phải là một thể loại văn học không? Câu trả lời ngay tức khắc rằng: phải. Thậm chí truyện cười là một thể loại văn học không thể và không nên thiếu trong sự nghiệp phát triển chung của nền văn học. Có điều truyện cười nào được xếp vào loại truyện thực sự đúng nghĩa của truyện văn học lại là vấn đề khác. Hiện nay, theo dư luận bạn đọc, có nhiều truyện tuy được các tác giả xếp vào sách truyện cười hiện đại, nhưng thực ra nó mới chỉ là những mẩu chuyện hoặc tiểu phẩm chứ chưa phải là truyện theo nghĩa tác phẩm. Đã là truyện mang tính văn học- văn học viết, thì tác phẩm phải chứa đựng các hình tượng văn học, phải đa dạng trong phong cách thể hiện, có cốt truyện, có tính cách nhân vật, hoàn cảnh điển hình, thời gian, ngôn từ.. .v.v... (6)
Thiển nghĩ, quan niệm như vậy là khá rõ ràng. Thế nhưng ngay ở trang 49 và 50 của quyển sách này, các tác giả lại đưa vào những văn bản sau:
ĐỐI ĐẦU VÀ ĐỐI THOẠI.
- Em yêu ạ, xu thế chung của nhân loại hiện nay là xích lại gần nhau, và dùng “ đối thoại” thay cho “ đối đầu”.
- Thế tại sao mỗi khi xích lại gần em anh cứ “ đối đầu” thay cho “ đối thoại”?
THÍCH HƠN
Trong đêm xem hát quan họ, cô gái chợt hỏi chàng trai:
Anh yêu! Anh thích “ liền anh” hay “ liền chị”?
Thích cả! Nhưng không thích bằng... “ liền em”
Các trang 14, 19, 41 cũng có những “truyện” tương tự.
Với người đọc, ở những “truyện” này, các khái niệm “ cốt truyện”, “tính cách nhân vật”,  hoàn cảnh điển hình”, nếu có cũng hết sức mờ nhạt và xa lạ. Thành ra “ có cốt truyện” hay “không có cốt truyện”, “có tính cách nhân vật” hay “ không có tính cách nhân vật” không còn là nỗi băn khoăn lớn khi ta xác định ranh giới giữa “ chuyện” và “ truyện”. Vì thế, bên cạnh cốt truyện, nhân vật và một số đặc điểm khác, khi tiếp cận loại sáng tác này nên chú ý đến dung lượng. Vẫn biết đặc trưng của truyện cười là rất ngắn, song ngắn đến mức nào, tối thiểu là mấy dòng, thì chưa ai xác định cụ thể. Điều này dẫn đến tình trạng, trong thực tế có những văn bản cười hiện đại, vì quá ngắn, mà người ta ngần ngại gọi chúng là truyện.
Đọc 294 truyện trong chương “Truyện cười” của Tiếng cười dân gian Việt Nam (Trương Chính- Phong Châu sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn và giới thiệu), có lẽ không mấy ai quên truyện Tiếc da cọp:
TIẾC DA CỌP
Một lão hà tiện bị cọp bắt, thằng con giương súng định bắn thì lão đã vội kêu lên:
- Nhằm vào chân nó mà bắn kẻo trúng mình nó thì hỏng mất tấm da, bán không được giá!
Ngoài truyện trên, trong dân gian còn có một truyện rất ngắn khác:
KHÓC AI?
Người đàn bà nọ ngồi bên nấm mồ khóc thảm thiết. Một người qua đường hỏi “ khóc ai”, bà đáp:
Cha của người ấy là con rể của cha tôi, cha tôi là bố vợ của cha người ấy!
Hai truyện này đều chỉ dài 4 dòng ( 39 chữ). Tin rằng, đây là hai truyện ngắn nhất trong kho tàng truyện cười dân gian Việt . Song, nếu Khóc ai chứa một mẩu đối thoại thì Tiếc da cọp chỉ chứa một mẩu thoại ( một lời nói), và điều này làm cho cấu trúc của nó ( bao gồm một mẩu thoại và lời dẫn chuyện  nêu lên hoàn cảnh xuất hiện mẩu thoại) giống với Vô ýMối tình đầu hơn. Do đó, xét về dung lượng, về cấu trúc cũng như một vài tiêu chí khác, một khi đã gọi Tiếc da cọp là truyện thì cũng có nhiều cơ sở để gọi Vô ý Mối tình đầu là truyện.
Những điều chúng tôi vừa trình bày trên chứng tỏ, việc phân biệt “chuyện” và “truyện” nói chung, “chuyện cười” và “truyện cười” nói riêng, thực chất chỉ có ý nghĩa tương đối. Bởi lẽ, về phương diện nhận thức, ta luôn muốn vạch ra một đường ranh giới tách bạch, rạch ròi giữa các khái niệm này, trong khi đó ngoài thực tế, quan hệ giữa các đối tượng mà chúng phản ánh lại rất biện chứng. Cho nên, dù cố gắng đến bao nhiêu thì những dấu hiệu được coi là cơ bản mà ta đã chỉ ra ở trên cũng chỉ mới bao quát hầu hết các loại truyện chứ chưa phải bao quát tất cả các loại truyện vốn có trong thực tế.
Phải chăng đây là nguyên nhân chính dẫn tới việc sử dụng máy móc các cặp khái niệm trên, và kéo theo là những cuộc tranh luận vô bổ?
P.T.Đ
-----------------------------------
Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn,
Văn học dân gian Việt Nam, Giáo dục, 1997, tr. 362
Đỗ Đức Hiểu,
Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp
, Tạp chí Sông Hương, 6-2000, tr. 63.
Từ điển văn học
, tập II, KHXH, H. 1984, tr. 450.
Từ điển thuật ngữ văn học
, Giáo dục, 1992, tr. 64.
Nguyễn Thái Hòa -
Những vấn đề thi pháp của truyện
, Giáo dục, 2000, tr.11.
Lê Ngọc Tú - Nguyễn Sông Thao (Tuyển chọn, giới thiệu),
Truyện cười hiện đại, Văn hóa dân tộc, H. 1998,tr. 5-6.


PHAN THỊ ĐÀO
(nguồn: TCSH số 145 - 03 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ QUYÊNVài năm nay, người Việt ở khắp nơi, trong và cả ngoài văn giới, tranh luận rất nhiều về trào lưu Hậu hiện đại (Postmodernism) như một nan đề. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, ai cũng mong muốn cần đổi mới trong xu hướng văn chương của Việt Nam và mang tinh thần thế giới.

  • (Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)

  • INRASARA1. Lạm phát thơ, ra ngõ gặp nhà thơ, người người làm thơ nhà nhà làm thơ, thơ nhiều nhưng nhà thơ không có bao nhiêu… Đã thấy khắp nơi mọi người kêu như thế, từ hơn chục năm qua(1). Kêu, và bắt chước nhau kêu. Kêu, như thể một phát âm rỗng, vô nghĩa, hết cả sức nặng. Từ đó tạo thành thói quen kêu, nhàm và nhảm.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân hội thảo con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ tổ chức tại Hà Nội từ 31/5 đến 3/6)

  • KHÁNH PHƯƠNGMột năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.

  • (Tường thuật từ Hội thảo “Thơ đến từ đâu” ở Tạp chí Sông Hương)

  • LÊ XUÂN VIỆTHơn bảy năm qua, kể từ ngày Bình Trị Thiên hợp nhất tỉnh. Trong thời gian ấy, hiện thực cách mạng đã diễn ra trên mảnh đất anh hùng này thật sôi động, lớn lao. Văn xuôi Bình Trị Thiên đã góp phần cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác phản ánh hiện thực đó, tạo nên món ăn tinh thần quý giá động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi, chúng ta thử nhìn lại sự phát triển của nó.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó một người bạn cùng nghề, cùng lứa, một nhà văn viết truyện ngắn mà tên tuổi không xa lạ lắm đối với bạn đọc, có lần đã tâm sự với tôi như thế nầy: “Tôi không bao giờ muốn viết bút ký. Dẫu có những cái nó là thực đến một trăm phần trăm, nó là ký rõ ràng, thì tôi vẫn cứ uốn nắn nó lại đôi chút để thành truyện ngắn”.

  • NGUYỄN THỊ KIM TIẾNTiểu thuyết lịch sử là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm “đinh treo” vừa tận dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ.

  • HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.

  • ĐỖ LAI THÚY1. Ở ta không biết tự bao giờ, trong số đông, đã hình thành một hệ giá trị: lý luận là nhất, nghiên cứu thứ hai, còn phê bình thì đứng đội bảng. Bởi thế mở nghiệp bằng phê bình và dựng nghiệp bằng nghiên cứu là đại lộ quen thuộc của nhiều người.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNThể loại tiểu thuyết đã ra đời và có lịch sử vận động khá lâu dài. Ít nhất, ở châu Âu, thể loại này đã có từ gần năm thế kỷ.

  • CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.

  • Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”

  • LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H

  • LƯU KHÁNH THƠ“Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)

  • HÀ VĂN LƯỠNG 1. Trên hành trình của văn học Việt Nam hiện đại mà nói rộng ra là văn học Việt Nam thế kỉ XX, bên cạnh việc phát huy và giữ gìn bản sắc và những truyền thống văn hóa dân tộc thì nhu cầu giao lưu, tiếp thu văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học phương Tây để góp phần hiện đại hóa nền văn học dân tộc trở thành một nhu cầu cần thiết.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHVấn đề bản sắc địa phương trên tạp chí văn nghệ tỉnh nhà chúng ta đã có dịp bàn bạc, trao đổi nhưng chưa ngã ngũ. Có lẽ trong trường lực báo chí, tờ văn nghệ vẫn là chỗ nhạy cảm nhất về phương diện văn hóa. Hẳn nhiên, trong địa hạt ấy, tờ văn nghệ cũng là nơi khả kiến nhất về phương diện nghệ thuật. Câu hỏi đặt ra ở đây là bản sắc địa phương của tờ báo được xét theo phương diện nào? văn hóa hay nghệ thuật?