AN PHÚ
Trong không gian yên ắng của ngọn đồi, trên bầu trời không còn ngôi sao nào đêm nay, chỉ có những giọt mưa lả tả, gió và lớp rêu mờ lám xám bên bức tượng.
Minh họa: Nhím
Cơn địa chấn qua đây, và sau trận lụt lớn, những vết lở loét của đất, vết xói của nước sau cơn địa chấn, ở ngọn đồi phát lộ một phế tích vùi dưới lớp đất trên đỉnh được khắc vào đá hai tượng người mặt ngựa, mặt mèo và chiếc vòng màu trắng đục bên hàng cây đã bong gốc. Nhiều đoàn khảo cổ đã về khai đi quật lại để tìm cái gì đó của một triều đại nào đó đã lụi tàn, nhưng chẳng tìm được gì ngoài cái sân đá hai bức tượng không giống ở bất kỳ thời kỳ nào ở đâu trên trái đất này.
Từ khi lũ trẻ ranh leo lên đồi và thấy bóng người, ngựa và mèo đùa vui cùng những tiếng động nghe rờn rợn như suối chảy qua khe đá vổng lên.
Ma. Một đàn ma ngựa, một bầy ma mèo. Tiếng la ó thất thanh vang vọng cả núi, trườn vào bóng đêm, trườn vào gió vi vút đỉnh đồi.
Hai đứa trẻ loay hoay lột từng mảng rêu phủ đầy hoa trên lưng ngựa, con ngựa đá như muốn phi thêm lần nữa, đôi chân cứ như vung vẩy, bay. Đứa bé trai gật gù bên tượng ngựa, nó phủi từng cụm đất bám trên mắt ngựa, mắt của ngàn dặm trùng xa. Nó khẽ thầm, những điều chỉ nó biết. Nó thấy đắng lòng, rưng rưng hai hàng nước mắt, đôi mắt ngựa cũng như rưng theo. Nó khóc. Nó nghe tiếng hí vang của con ngựa hoang đang vung vẩy giữa lưng chừng đồi. Đứa bé trai bất chợt bị hất vung khỏi mặt đất sau một làn gió, như vừa bị một cái đuôi ngựa vung ngang mặt. Đứa bé gái tưng tửng, không buồn, không vui. Nó nhìn hai tượng mèo ngựa, chép miệng: “Lạ, có bao giờ ai lại đúc tượng mèo và ngựa với nhau, gần nhau nhưng chẳng nhúc nhích được”. Nó nhìn vào đôi mắt mèo, mắt của loài đi đêm bị đất bám đục, nó la thất thanh rồi kêu váng đầu, thân hình rã rời như muôn kiếp về báo, rã rời. Gáy đứa bé gái rờn rợn rùng một nhịp thật mạnh, một làn móng vuốt qua. Đứa bé trai ôm nó vào lòng. Những giọt nước mắt đứa bé gái rơi xuống đất, đám đất ướt nhàu một vệt, mắt tượng mèo trong veo đăm nhìn nó. Đôi mắt nhắm dần lại, đứa bé gái như thấy mèo vừa về và nghe tiếng kêu vang vọng bên tai, một âm thanh xoáy vòng vòng vào thẳm sâu vỉa tầng não bộ. Bàn tay của bé gái vục đỏ mấy dấu móng, một cái giật tay lùi lại, đầu quay theo vòng chập chùng đồi.
Đôi tình nhân đến bên đồi, họ thắp nén nhang cầu nguyện, người con trai lẩm bẩm khấn: “Lạy ngài cho chúng con…”. Người con gái cũng lẩm bẩm, hai mắt nhìn về xa xăm. Nó nhắm mắt, nhếch môi và nở một nụ cười ngạo nghễ. Tiếng cười giòn tan vỡ vụn cả không gian. Chợt nó im bặt lại và khấn cầu như người con trai. Người con trai chợt nhiên nghe nó gào thảm thiết. A, đau... ngựa, mèo, đau… Người con gái phát hiện ra người đi cùng nó im lặng thì nó lại đau, người kia vui cười, thì nó vui và lâng lâng. Lạ. Một luồng gió vút qua tung bay bụi mù, người con trai và người con gái dim mắt, họ thấy bóng mèo và ngựa vụt qua và hình ảnh đôi tượng người mặt ngựa và mèo, hình ảnh tượng phát lộ từ lần hai đứa trẻ dắt nhau lên đồi. Bàn tay hai người kéo nhau vào, giãn ra rồi kéo vào trong vùng sâu của một màu đen thẳm. Người con gái buông tay, người con trai buông tay. Họ lại nghe âm thanh kỳ lạ lao vào nhau, lao vào giữa lồng ngực. Đôi bàn tay nắm vào nhau, người con trai và người con gái nghe âm núi vừng vựng dậy cơn địa chấn kéo hút đôi tượng ngựa mèo nhau.
Đôi tình nhân là lứa trẻ con đầu tiên được sanh ra ở hai ngôi làng heo hút nằm sâu ở vùng đồi. Xen vào nhau những mái lá lợp bằng cây rừng và những cây gỗ lồi gốc được chôn làm cột, mỗi ngôi nhà có một kiểu dựng khác nhau. Hai đứa trẻ được sanh ra cách nhau ba năm. Đứa bé trai được sanh vào rạng sáng, sau một trận mưa lớn có năm đường lở của lũ quét ngang dãy núi xa, trong ngôi nhà ở làng nằm sâu dưới vực dốc triền đồi, làng Âm. Ba năm sau, đứa bé thứ hai của làng chào đời vào đêm đầy gió trong ngôi làng Dương nằm trên cao của ngọn đồi. Đêm đó người ta nghe có tiếng hí, nhịp rung của vó ngựa lao vào đêm đặc quánh trên ngọn đồi. Ầm, nhịp lao của ngựa xuống đồi và một tiếng khóc vang lên trong ngôi nhà có cái cây thân bị cứa như đã từng là nơi dùng để cột dây. Ngôi làng bắt đầu có sự thay đổi từ khi có đứa bé thứ hai chào đời. Đêm đêm người ta nghe trên đồi có tiếng vó ngựa lao đi và tiếng hí vang, tiếng mèo kêu rờn rợn vào vực thẳm. Hai âm thanh từ hai hướng lao vào nhau và vỡ ra khi chạm được vào nhau ngay giữa đỉnh đồi. Sau một hồi âm thanh nhẹ dần lại, hai con vật như đã quấn vào nhau. Những âm thanh dội xuống đêm đêm làm ngôi làng càng trở nên hiu hắt, rờn rợn. Sau những chuỗi ngày đó người ta thường thấy bóng mèo ngựa vờn nhau ở đỉnh đồi. Những đứa con trai của hai làng được sanh ra sau đôi trai gái ấy như được gắn trong mình đôi móng vuốt của mèo, dẻo dai của núi và thích đi hoang như mèo. Những đứa con gái lớn lên đều có tính nghênh ngang hoang hoang như ngựa. Điều lạ, trai gái trong cùng một làng chẳng bao giờ lấy được nhau, cưới nhau về thì sinh bệnh mà đi. Con gái làng Dương phải đi lấy chồng xa mới sống được. Con trai làng Âm phải đi làm ăn xa mới thành đạt, mới có hy vọng vinh quy trở về.
Hai ngôi làng im ắng nằm sâu trong đồi chẳng ai ngó tới, chẳng ai biết. Từ khi câu chuyện trai gái hai làng yêu nhau chẳng bao giờ đến được với nhau, đôi tình nhân nào dắt nhau lên đồi cũng phải chịu cảnh ly tán, tan vỡ như bọt nước và từ sau trận địa chấn người muôn nơi kéo nhau về làng đồi Dương - Âm. Nhiều gia đình không muốn cho con cái lấy nhau cũng đã bày trò đưa con lên đồi mèo ngựa làm lễ, tình yêu vỡ vụn. Lời nguyền ngày càng được thắt chặt và đầy trên ngọn đồi.
Cơn gió vuốt qua hai bức tượng, đầu ngựa lởm chởm sợi lông bờm tung tóe, con mèo bắt đầu kêu gọi tiếng của đồng loại nó. Chẳng có ai nghe, chỉ con ngựa ngóng tai mà dường như không chấp nhận những âm thanh đó. Nó vểnh tai, ngóng cổ nghe âm thanh lạ. Nó cúi xuống mỉm cười một nụ đầy mãn nguyện. Tiếng gào của mèo nhỏ dần, nhỏ dần chỉ vừa đủ cho ngựa nghe. Núi chuyển và rung lên bần bật. Chùm râu mèo vểnh lên bên cái mỏm ngựa dài màu nâu đỏ, rung rung. Cái nền lún xuống bên hai bức tượng. Hai gò má gấp vào nhau, mèo ngựa. Mỗi khi có trận địa chấn, vệt nứt ở giữa đồi lún xuống, quả đồi áp lại, bức tượng hai con ngựa mèo nghiêng vào nhau, chụm lại. Cơn địa chấn cũng làm rời ra hai bức tượng khi hai bên sườn đồi nghiêng ra, đôi ngựa mèo lại cách trở. Mỗi khi mưa gió ở giữa đồi người ta thường nghe tiếng rầm rập như đôi ngựa mèo đang đục khoét để cố gần rút dần khoảng cách.
Vào đêm to gió lớn, một người lạ bị mưa lũ ngăn lối, lạc đường trú chân dưới hốc cây cổ thụ trên đồi. Đêm ấy, người đàn ông lạ vụt chạy mấy lần vì run sợ, mắt vừa nhắm lại là nhìn thấy đôi mèo ngựa vờn nhau và hợp sức chống lại một con báo. Con báo tấn công mèo, đôi chân con ngựa nâu tung vó, con báo khụy chân. Con báo quay lại tấn công ngựa, con mèo vồ vào đôi mắt báo, máu từ hai mắt báo chảy xuống thành dòng suối đỏ. Con báo bị mù lại về gào thét muốn nuốt chửng đôi mèo ngựa. Con báo đi bằng hai tai và chiếc mũi thính, nó thấy rõ mồn một từng con đường, dấu chân và cả vết lông ngựa mèo. Con báo lao vào chụp bờm ngựa. Meo, tiếng kêu la giữa khoảng không gian tĩnh mịch, mèo vồ cắn vào mũi báo. Sau tiếng khịt, con mèo quay lại tấn công vào lưng báo. Một tiếng hí vang, hiểu được ý ngựa, mèo lao nhanh ra, một cú đá hậu mạnh khiến con báo ngã nhào trên đỉnh dốc xuống vực. Ầm. Tiếng hú cuối cùng đời báo. Con ngựa liếm từng sợi lông mèo trong hơi thở ngắn. Meo, một tiếng kêu nhảy cẩng lên lưng ngựa. Con mèo đã ngồi trên lưng ngựa và vuốt ve bờm tóc rối tung của ngựa. Hai cái mõm châu vào nhau. Ngựa mèo cuốn vào nhau, cuồn cuộn như nước lũ, cái dốc oằn èo khi mèo ngựa lăn xuống lưng chừng mềm nát vạt cỏ. Một cơn gió khiến mèo rùng mình trên bờm ngựa. Con ngựa hí vang sau lần liếm mũi khiến mèo, hai mặt mèo ngựa úp vào không gian đêm, tiếng rên rỉ lẫn vào gió... Như bị cào và đá vào người, người đàn ông giật mình tỉnh giấc vụt chạy như điên lao nhanh xuống ngọn đồi đặc quánh cơn mưa đêm ma mị cùng tiếng la ó thất thanh cả vùng đồi.
Trời đổ mưa, một tiếng sét đánh xuống trên quả đồi nẻ hai, ở giữa là hai cái mỏm ngựa mèo châu vào nhau, hai cái đầu cuốn không thả giữa vết nứt của núi. Người ta phát hiện phía sau đuôi của hai con mèo ngựa có một dấu vết kỳ lạ mà chẳng ai hiểu là gì.
Một con mèo ngựa con đứng bên đồi ăn cỏ. Người đời cho rằng nó là sản phẩm của đôi ngựa mèo, vì đầu nó dài như ngựa, đôi mắt sáng, lại có mấy sợi râu mèo. Thân nó mang dáng ngựa. Bờm nó mọc sau gần hai chân. Đuôi ngắn cụt lủn và dong cao như cán cờ. Người ta đặt bẫy bắt nó. Sau nhiều lần mai phục, cuối cùng cũng bắt được. Người ta đem nhốt nó vào kẽ hở giữa hai quả đồi sụp lún. Nó cào cấu suốt mấy chục năm trời và gục dưới kẻ núi.
Tiếng sét đánh xuống đồi, ngựa mèo chết.
Hai bức tượng nằm sát nhau giữa một hố sâu của con mèo ngựa con. Ban đầu nguyên hình của con ngựa và con mèo, nhưng đời sau vì thấy cái tình chi chi thắm thiết hơn đồng loại của họ nên dựng tượng. Hai cái tượng đá hình người mặt ngựa mèo được dựng nên. Theo dân làng đồi loài ngựa mèo vốn khắc nhau, chưa bao giờ ở chung được với nhau. Hai con vật vốn khắc nhau như từ tiền kiếp, đến ai mang tuổi đó cũng khắc nhau tận thẳm sâu trong trí tưởng. Và một biểu tượng của sự xung khắc được dưng nên bên cạnh nhau, chỉ có trời đất, địa chấn mới tách ra và cuốn vào. Chẳng ai hiểu được sự sâu thẳm tượng và chẳng ai hiểu được lời nguyền ở đồi tượng.
Đôi tình nhân khấn nguyện. Lời thì thầm chẳng ai nghe. Nhưng sau mỗi lời khấn đôi trai gái nổi da gà và mắt hoa đỏ. Trên đồi ráng chiều thắm len từng làn cây, rủ vào hơi thở đá. Đôi tình nhân lăn trượt xuống ngọn đồi. Đá sỏi đầy lối mà chẳng ai đau. Trong gió reo áp tai vào vách núi chỉ nghe tiếng rên xiết quằn quại, hổn hển lay phay hoàng hôn tím mờ, đồi núi chập chờn suối khe.
Một đứa con ra đời vào năm ngọ, tháng mão, được đặt tên con theo tên hai con linh vật của loài người, chính xác là của người ở vùng đồi, Đồng Hoang. Đồng Hoang lớn dần từng ngày, nó được cha mẹ kể sự tích về cái tên nó được mang và vận vào mình. Đồng Hoang lên đồi đào bới những ngọn lá thông để tìm vết của lời kể. Chẳng có dấu vết nào để lại chỉ duy là gió, rác lá thông bay theo gió chao đảo xuống đồi. Đồng Hoang đắp lên hai pho tượng những cọng rêu trổ đầy hoa li ti màu trắng đục ngậm sương. Cọng hoa rêu nhỏ và đầu hoa mang hình những con nòi giống, lúc nhúc quanh bãi đá.
Đồng Hoang bỏ làng ra đi vào một ngày đầy gió, trên quãng xa và dưới đồi thong dong là ngôi nhà của Đồng Hoang. Từ khi Đồng Hoang bỏ đi chẳng ai đặt chân đến ngôi nhà của nó. Không ai biết được tung tích của nó. Ngôi nhà như đám cỏ của Đồng Hoang bốc cháy vào một đêm mưa, và người đời đắp một nắm tròn ở đó, tôn thờ là Đồng Hoang như vị thần giữ lửa, giữ lại ngọn lửa trong đêm mưa gió, giữ những cọng hoa rêu màu trắng đục ngậm sương và dài lúc nhúc như khi Đồng Hoang mang lên đặt ở tượng ngựa mèo.
Một chàng thanh niên mặt dài râu vểnh ngược ra hai bên nhếch nhếch mấy sợi, trông giống Đồng Hoang, bước lên đồi với dáng đi ngạo nghễ, chàng chẳng tôn thờ ai, chẳng sợ cái gì tất thảy, tất cả những lý thuyết với chàng đều là rác rưởi, máu me của những giọng đặc khàn không âm vực của tin yêu. “Khấn nguyện cầu khẩn để được gì mà phải khấn nguyện” - Đầu chàng trai nghĩ xa hơn thế nhưng miệng thốt lên những lời méo mó dù biết mình chưa am tường, và vì thói chửi đổng lâu ngày thành quen. Chàng trai đâu phải chỉ hay chửi đổng, đôi lúc ngọt ngào đến tận răng mê người khác tê dại. Cái miệng ngắn hơn cái mỏ nhưng đôi lúc cái mỏ của chàng dài hơn cái miệng. Thốc thốc chửi bới ỏm tỏi, thốc thốc ru ngủ bao nhiêu cái đầu lạnh.
Chàng xuống dòng suối máu, soi mặt qua bóng nước, thấy mình mặt dài như ngựa và có mấy sợi râu mèo bám riết trên khóe miệng. Chạy vội vã lên đồi, chàng quỳ xuống khấn và lạy liên hồi. Rờ tay lên mặt thấy nhẵn nhụi, chàng trai vội chạy ra khỏi ngọn đồi, vùn vụt lao đi như tên. Một khoảng xa của thời gian chạy, chàng ngoái đầu lại và bắt đầu trổ những ngón chửi, “mèo ngựa cũng chỉ là tượng, ta đây chẳng sợ...” - Chàng gào trong chiều ráng hồng buông trên nương rẫy. Chàng luôn miệng chửi nhưng tay và chân run lên khi biết mình chẳng rõ, nên thờ cúng, thật thà hay lừa dối, giả trá. Chàng rơi xuống vực thẳm đầy người trung thực đang đấu nhau để sinh tồn. Chàng to hơn đám người đó vì chỉ mình chàng là giả trá. Đám người bắt đầu học chàng những điều giả trá theo châm ngôn của chàng, “sống thật như các người thì có mà chết, cần gì phải đánh nhau, lừa phỉnh nhau đi”. Những người thật thà xây một ngôi miếu và mời chàng vào để họ lạy sống. Đám người bắt đầu bái lạy chàng, nhờ chàng mà bao nhiêu người biết được thế nào là sự sống. Từ khi lên ngồi ở miếu, chàng bắt đầu thị uy bằng những câu văng tục. Chàng chửi đôi ngựa mèo “cần gì mà phải yêu đến chết, yêu mà chết thì còn gì, được gì”... Suốt ngày từ câu mở đến câu kết miệng chàng luôn nói về đôi tượng ngựa mèo. Trong đầu chàng không thoát ra được, chàng ghét đôi tượng vì mặt mình mang dáng của hai khuôn mặt ngựa mèo ghép lại mà không ai gọi chàng tiếng nào, khấn nguyện chàng như đôi tượng ngựa mèo, chỉ có đám người kia, cũng chẳng là bao, khiến chàng phải thỉnh lạy để thay đổi thành mặt nhẵn nhụi.
Chẳng còn tiếng chửi nào hay tiếng kêu gào khấn nguyện trên đồi, đôi ngựa mèo nhìn nhau bằng mắt đá, đôi mắt của sự thật, nhìn nhau trong tiếng thở dài của gió, tiếng reo của lá. Loài người vẫn tồn tại như thuở nguyên sơ chỉ hai tượng ngựa mèo không biết nói, lặng câm trong chiều sâu thẳm.
Một người lên đồi bới lông tìm vết, nhặt được một sợi dây dài tua tủa và một cái móng thú bị ăn mòn hết nửa. Người đem về để lên chiếc bàn ở giữa gian nhà, hàng ngày ngồi lẩm bẩm khấn: “Lạy tiên tổ cho con được yên bình trong cõi yêu, cho si mê thấu tận tâm can…”. Hương bay nghi ngút, làn khói tản trong gió có hình chiếc bờm ngựa, người tin ngựa về. Nhiều người tụ tập về ngôi nhà, buổi chiều trên bầu trời có đám mây ngũ sắc mang dáng ngựa, những lời tin được chắp cánh.
Từng đoàn người đổ về đồi mèo ngựa, họ nối đuôi nhau đi trong im lặng. Thi thoảng có đôi ba câu của mấy đứa trẻ lảm nhảm “ngựa mèo mà cũng có tình yêu?” Cả trăm đôi mắt hướng về chúng: “Đồ con nít hư hỏng”, “đồ chẳng có niềm tin”, “đồ”… Và đoàn người đã bắt đầu im lặng. Đoàn người lại im lặng tiếp tục đi, không ai còn dám mở miệng nói những câu phạm thánh về mèo và ngựa, không dám chê bai hay bất cứ cái gì, không ai còn soi mói nhau mặt ngựa, thói mèo mả gà đồng. Đoàn người tiếp tục đi, im lặng theo chân lên đỉnh đồi. Những người tham đem theo cả cái bịch to để hứng nước mang về cho gia đình, bạn bè, để uống tăng thêm tình yêu thêm nồng đượm, sức khỏe, giàu có, phát lộc phát tài, phát tình phát yêu. Câu chuyện bắt đầu được thêu dệt thêm xung quanh bức tượng mèo ngựa. Và đến thế hệ nX người ta lại xây thêm ngôi đền lớn trên đỉnh đồi, trên mái đền có hai cái đầu ngựa mèo to tướng, rồi nặn thêm những bức tượng ngựa mèo dát vàng ở trên án thờ. Khói hương nghi ngút trầm mặc, đền mỗi lúc một đông đúc, lúc nhúc người.
Đồi phủ đầy lá thông và cỏ thạch xương bồ triền theo đá men dòng suối bên sườn, đoàn người ngồi lại nhúm lá để sưởi ấm trong đêm linh ở ngôi đền. Mùi hương của lá thông và cỏ thạch xương bồ tươi quyện vào nhau tỏa khắp vùng đồi, đoàn người tỉnh dậy vì sự hưng phấn của lá, đầu óc tỉnh táo. Họ bắt đầu những câu chuyện kể linh thiêng của ngôi đền, tượng người mèo ngựa được thờ cúng ở đây, sự tích ngôi đền. Vị thần mèo ngựa vâng mệnh trời xuống nhân gian để bảo vệ tình yêu cho vùng đất này, nếu biết thờ cúng sẽ được phò hộ… câu chuyện cứ thế dài ra.
Lá phủ đầy bức tượng ngựa mèo trên ngọn đồi. Thời gian vùi lấp đi khoảng trống bằng những nắm đất, mưa dần vùi hai bức tượng. Hai cái đầu tượng trơ trên mặt đất cùng cơn xoáy của thời gian. Hai khuôn mặt mèo ngựa chớp tia nhìn mắt đá về phía ngôi đền lớn phủ kín ngọn núi đầy người. Nhiều người đổ về trên ngôi đền, họ đi trong im lặng. Chẳng ai biết về hai bức tượng ngựa mèo, họ chỉ được nghe qua những câu chuyện với nhiều phiên bản.
Đôi tình nhân lặng chìm theo câu chuyện, những nhịp di xuống triền đồi. Đồi phủ đầy mưa. Cơn địa chấn đi qua đây, sụp lún đã vỡ ra. Đêm ánh lên những vệt trắng xẹt qua, hơi thở lạnh của đá thắm vào đôi tình nhân hoang lạnh cuộn đôi tượng ngựa mèo. Ánh đỏ chớp giữa đêm quặn xiết, lô nhô những câu chuyện ngờ vực. Họ lăn xoáy vòng chiều ngược thời gian làng đồi. Lá cây và đất bám thắm vào da thịt. Đôi tình nhân gieo loài rêu đa mang trổ những cọng hoa ngậm sương mang hình những con nòi giống trên đồi tượng. Vết nhăn của đất bắt đầu lở dần ra vòng xoay tít mù.
Đêm đêm, tiếng ngựa hí và tiếng kêu của mèo trườn vào sườn đồi cỏ cây rung lên những thanh âm ma mị lay phay đám hoa rêu buốt gáy làng Dương - Âm.
A.P
(TCSH336/02-2017)
NGUYỄN LÊ VÂN KHÁNHTôi xa nhà trọ học thành phố khác. Dịp nghỉ ngắn ngày không về nhà được, tôi đón xe về thị trấn men con nước nhánh sông lớn về nhà ngoại. Từ ngoài ngõ con Bơ sủa váng, Vinh chạy ra ôm bụi chè tàu nơi đầu bến nước, gọi mạ ơi, Sương về.
NGUYỄN HÙNG SƠN Một buổi chiều cuối tháng ba trong lúc ngồi bón cháo cho chồng, bà Loan nhận thấy hôm nay Hào, chồng bà có những biểu hiện khác thường. Ông có vẻ suy nghĩ, ăn uống uể oải.
LỆ THANHBé Khánh Hạ - đứa con gái duy nhất của chị đã đi! Chiếc lá xanh độc nhất trên thân cây khô héo, khẳng khiu đã lìa cành. Ngọn lửa cuối cùng trong đêm dài trơ trọi của chị đã tắt ngấm trong bỗng chốc. Chị tưởng rằng mình sẽ không thể sống nổi trên cõi đời héo hắt này nữa.
HOA NGÕ HẠNHHọ Nguyễn ở Trung Lộc quê gốc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, Thanh Hóa. Gia phả ghi rõ, ông tổ của dòng họ theo chân Chánh đô An phủ sứ Phạm Nhữ Dực vào khai khẩn đất Thăng Hoa năm 1402. Ban đầu họ Nguyễn định cư tại Hương Ly. Đến đời sau, một nhánh trong tộc chuyển hẳn lên Trung Lộc, nằm ở thượng lưu sông Thu Bồn.
Đàm quỲnh NgỌcChiều nay, tôi nhận được điện khẩn của Tâm, bức điện vỏn vẹn chỉ có dòng chữ: “Thứ bảy tới, tao đi Hoa Kỳ, mày tới gấp”. Tôi không ngạc nhiên khi biết Tâm đi Hoa Kỳ, với nó, đi nước ngoài đã trở thành bình thường như các bà đi chợ. Tôi chỉ ngạc nhiên khi Tâm đã điện khẩn cho tôi, điều mà từ trước đến nay chưa bao giờ có.
TRẦN NGUYỄN ANH Trong gia đình tôi, dì là người đến sau cùng. Dì thường bảo tôi: “Ô Mai à, hãy coi dì là bạn nhé”. Tôi thẳng thừng bảo: “Tôi chỉ có thể coi dì như kẻ thù”.
NHẬT HÀ Lần đầu về thăm Đồng Tháp Mười, thú thật, tôi thấy có nhiều điều rất lạ, từ mảnh đất, sông nước, cây cối, chim muông tới các địa danh và nhất là con người.
CAO LINH QUÂN Ăn mày là ai? Ăn mày là... (Ca dao xưa)
LAM PHƯƠNGNàng không có sự lựa chọn nào khác. Cuộc đời không cho phép nàng lựa chọn. Ngôi nhà lá sùm sụp xám xịt như con ốc ma. Ba chị em không cùng cha và chưa bao giờ biết mặt cha. Và mẹ nàng, người đàn bà có khuôn mặt nhầu nhĩ như tấm lá mục úa, bươn bả mót máy làm thuê một ngày dẫn người đàn ông xa lạ về.
HÀ HUỆ CHI1. Mong đợi từ lâu lắm một tiếng cười sum họp. Tôi muốn khóc. Tôi muốn chết. Khi cuộc sống chẳng có gì giống một điệu múa. Khi trái tim chẳng buồn đốt pháo.
Phan HuyỀn ThưLam thấp thỏm nghe ngóng tiếng còi tàu từ xa vọng lại. Cứ khoảng hai phút một lần, tiếng còi hú dài xa xăm. Trời mưa to, chui tọt vào cái quán cà phê sát đường tàu, Lam ngồi gặm nhấm những thù hận của mình.
TRẦN HỒNG LONG“Tao cấm mầy nói nó chết! Nếu mầy còn nói nữa, tao sẽ đuổi mầy ra khỏi nhà tao ngay!”. Chỉ cần nghe cái “điệp khúc” ấy là dân xóm Vàm Đinh đủ biết bà Hoài chửi chị Ngọt ở trên tỉnh về thăm. Và, không cho chị nói chuyện anh Mặn hy sinh, mặc dù giải phóng đã hai mươi năm rồi vẫn không có một tin tức nào về anh.
ĐINH DUY TƯ Truyện ngắn “Chỉ vì thằng Mỹ, tao mới đến nông nỗi này. Ví như không có hắn, tao thành trạng lâu rồi”.Đó là tuyên ngôn của một trạng lính. Vâng! Hắn tên là Nguyễn Đăng Lính ở cùng làng với tôi. Hai đứa nhập ngũ một ngày, nhưng ngành nghề có khác nhau.
NGUYỄN THỊ THÁIVào hội Văn học Nghệ thuật được gần năm, đây là lần thứ hai tôi được đi thực tế. Lần thứ nhất cách đây hai tháng.
HOÀNG BÌNH TRỌNGGập tấm bản đồ địa hình lại và vừa kịp đút vào xà cột, thì trung uý Trương Đình Hùng nghe có tiếng chân người lội bì bọp dưới suối. Lách mình ra phía sau cái trụ chằng phủ đầy dây hoa lạc tiên, anh thấy một người đàn ông trạc ngoại ngũ tuần, cao lớn, vẻ mặt thô tháp, cõng chiếc ba lô cóc phồng căng từ dưới dốc bươn bả trèo lên.
Y NGUYÊN ... Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ
GIẢN TƯ HẢIGã bước xuống xe ôm móc ví trả tiền rồi lững thững bước về con phố ven đê. Chiều thu ánh mặt trời vàng vọt trải dài lên cái thị xã vùng biên vốn dĩ đã buồn lại càng thêm vẻ mênh mang hiu quạnh. Giờ tan tầm đã qua, dãy phố ven đê hoặc có người còn gọi là cái chợ người vốn tập trung nhiều lao động chân tay cũng đã vãn dần. Thấp thoáng vài bóng chiếc ô tô qua lại. Gã chậm rãi vừa đi vừa nhìn trái ngó phải, chốc chốc quay lại nhìn như sợ bị ai đeo bám. Chân gã đi giày thể thao adidas mới cứng, vận chiếc quần bò cũ đã thủng lỗ chỗ như đạn bắn, phía trên khoác chiếc áo đại cán rộng thùng thình màu cứt ngựa, đầu đội mũ cối Hải Phòng kiêu hãnh một thời cũng đã sờn cũ và bong lớp vải để lộ cái lõi xám xịt.
NGÔ HỮU KHOADưới gốc cây Sau Sau, thứ cây có thân gỗ nhưng muốn mang đốt cũng không cháy, dùng làm gỗ thì nhanh mục nên mới được sống tươi tốt ở vùng rừng thường xuyên được dân sơn tràng lui tới. Dũng trong thế ngồi co quắp, hai bàn tay giấu dưới vạt áo mưa để vừa tự sưởi ấm cho cơ thể vừa giảm tiết diện để tránh những hạt mưa lạnh buốt lọt qua tán lá rậm rạp, những hạt mưa mùa không biết mệt mỏi cứ rơi và rơi…
NGUYỄN VIỆT HÀCó một ngày rất âu lo đã đến với thằng béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi. Trước đấy hình như duy nhất một lần cái cảm giác bất an này cũng đã đến. Láng máng không thể nhớ.
MA VĂN KHÁNGKhi những người U Ní ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt chiếc vai cày lên cổ con trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát, thì hoa gạo bắt đầu nở.