Đọc tiểu thuyết 'Đường vắng' của Hiệu Constant

14:37 22/09/2015

NGUYỄN HIỆP

Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

Ảnh: internet

“Người ta thường dễ dàng nhận ra những vết bầm tím trên thân thể người phụ nữ, chứ mấy ai thấy trái tim người đàn ông đang rỉ máu.”

Một góc nhìn khác. Một cảm thông khác. Và chắc chắc những luận đề đưa ra sẽ không như thói quen, không như đa phần, không như xu hướng cảm tính, một chiều thông thường.

Quả vậy! Quyển tiểu thuyết không đồ sộ về hình thức này, chỉ với 300 trang in khổ 13x20.5 cm khá khiêm tốn và lối dẫn chuyện bình dị, nhưng tác giả đã xây dựng được những dòng chảy bi kịch có chọn lọc cho một thế giới đau khổ và cuồng say, bằng một nhãn quan rộng rãi, một nhiệt huyết phẫn nộ nhưng điềm tĩnh, bằng một giọng văn nữ tính nhưng thấu đáo trước/ trong/ với những cùng cực, những chuyển động, những mở rộng và cả những quy định, định kiến của thời đại mình đang sống.

Hiệu Constant, tên thật Lê Thị Hiệu, hiện đang sống và viết tại Paris. Với sự kết hợp hai nền văn hóa Việt - Pháp trong người nên giọng văn chị có một sinh khí khác lạ, nó chưa hẳn là đa giọng điệu hay thể hiện sự giằng co nào đó. Căn bản vẫn là đề tài thực trạng nhưng dưới ngòi bút như vậy nó liên tục đem đến cho người đọc sự thú vị khi lần lượt đọc qua từng câu, từng chữ, từng ý.

Chẳng hạn, ta thử khảo sát một trong năm mạch truyện chính là cuộc tình của Bertrand và cô sinh viên đang nghiên cứu kiến trúc sử tên Hiền. Họ yêu nhau, họ vượt qua được rào cản về ngôn ngữ, về văn hóa bằng cách tiếp nhận thêm, hiểu thấu thêm, đến mức họ đã thực sự rung động, thực sự chia sẻ chân thành và tận cùng với nhau mọi điều, từ những biểu lộ tinh tế, từ những truyền thống gia đình sâu kín, từ những khát vọng, ước mơ… Vì vậy mà Tình yêu của họ, thoạt nhìn tưởng là tuyệt đỉnh, tưởng là tình yêu lý tưởng, tưởng là ta bà nhân gian này họ là cặp đôi được Thượng đế yêu chiều, thế nhưng họ lại vấp phải một nỗi khổ đau khác, là sự nhận diện ra giới tính thật của mình qua từng giây, từng phút, từng giờ của Bertrand. Cái gọi là tình yêu đồng tính đang xâm thực một cách cuồng bạo vào Hạnh phúc, vào Tình yêu của Bertrand và Hiền. Và tất nhiên cuối cùng cái bi kịch âm ỉ ấy đã trở thành bi kịch hiển hiện, bi kịch vĩnh viễn. Dù cho Bertrand đã đau rát, đã tuân mệnh, đã chấp nhận đi vào “con đường vắng” một mình thì cái bi kịch kinh khủng nhất lại rơi trùm xuống đời sống của Hiền. Hiền bị đột ngột rơi vào tận đáy cùng của trạng thái cô đơn, của thế giới cô đơn, của đời sống cô đơn, của những cơn khát không bao giờ giải khát được, của nỗi bơ vơ, lạc loài.

Bertrand là một trí thức chân chính, anh biết tất cả những điều đó.

Anh đau với nỗi đau của người mình yêu và đau với nỗi đau chính anh, nhưng anh, dù nỗ lực tới cùng, vẫn cứ bất lực. Anh đã cố gắng làm những công việc có ý nghĩa lớn lao hơn cho cộng đồng, cho xã hội, anh đi tận châu Phi để tìm hiểu, chia sẻ với những thân phận cùng khổ để rồi thay mặt họ cất lên tiếng nói trong cuộc Hội thảo quốc tế về Nhân quyền, anh đi đến tận những chiến trường nóng như Afganistan để tìm hiểu, đưa ra ánh sáng những che giấu liên quan đến binh lính Pháp, anh cố gắng đánh động lòng trắc ẩn của con người, cố gắng “gạn lọc lòng quả cảm từ chính những sự tuyệt vọng”, anh đã cho đi tất cả mà không đòi hỏi lại gì… Ngay cả khi sống được như vậy, cao cả được như vậy thì Bertrand đã thực sự giải thoát cho mình và cho người mình yêu ra khỏi bi kịch chưa? Tất cả những nỗ lực ấy cuối cùng cũng luẩn quẩn trong câu hỏi căn bản về hạnh phúc, về tình yêu mà không sao chạm được câu trả lời xác đáng.

Đâu phải cứ tạo ra một ảo ảnh thế giới hay một cực thực ám ảnh mới được xem là một tiểu thuyết hay. Đường vắng, theo tôi là một tiểu thuyết hay, xúc động bởi nó thực một cách rộng mở, thậm chí có nhiều biên độ bị phá vỡ để nhìn nhận lại, bởi sự thôi miên độc giả của một tác giả có hiểu biết đa chiều và bởi những vấn đề tâm lý cá nhân đã được đào sâu tới tận gốc rễ.

N.H  
(SH319/09-15)

---------------
(1) Tiểu thuyết Đường vắng, Nxb. Hội Nhà văn, 2013.  






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.