Đọc thơ Nguyễn Sĩ Cứ

14:46 07/04/2009
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

Trong cái trường thơ hỗn mang đó, Nguyễn Sĩ Cứ có muốn trở thành một nhà thơ hay không? Anh dè dặt như một kẻ biết điều. Anh lặng lẽ như một người chiêm ngẫm. Anh sợ hãi như một chàng trai tân vừa chạm tình trường: “Ngực ai rờn rợn chạm nơi tay”...

Còn nhớ ba năm trước, Nguyễn Sĩ Cứ đưa tôi 30 bài thơ nhờ đọc xem có in thành tập được không. Đã tuổi “tri thiên mệnh” mà trong tay có 30 bài thơ thì quả là quá ít so với gia tài thơ của bao người làm thơ khác; nhưng nếu in thành tập thì 30 bài kể cũng hơi nhiều. Tập Đầu súng trăng treo của Chính Hữu chỉ có 20 bài mà làm cho các nhà văn học sử không bao giờ dám bỏ sót tên tuổi của nhà thơ. Tôi đọc 30 bài thơ của Cứ, phân vân mãi, cuối cùng bảo anh nên đợi một thời gian xem có thêm được một số bài nữa không? ý tôi muốn tập thơ cần có thêm một sức nặng về chất, nghĩa là phải gây được ấn tượng riêng mạnh hơn nữa. Cứ nghe tôi nói, hơi hẫng một giây, rồi anh im lặng. Ba năm sau, tập bản thảo thơ của anh đã dày gấp rưỡi. Những bài thơ mới đã đến độ “chín tới”, với những xót đắng của yêu thương và chiêm nghiệm:

Cái cây trước nhà bị chặt
Ra giêng chim lại tìm về
Bơ vơ đánh rơi tiếng hót
Tiếng hót loang dài mặt đê
Sang năm rồi sang năm nữa
Hết cây, chim chẳng tìm về
Chim hót trong băng cát-xét
Tiếng chim bán đầy chợ quê.
                                 (Tiếng chim)

Trong lời vô ngôn
nỗi niềm
vỡ tung
ngực khát
em nói yêu tôi
ngoài tầm thể xác

nhưng có khi
cơn mưa tôi
không dịu em
cơn khát
chính là điều bất hạnh
vô ngôn.
                                              (Vô ngôn)

Thơ Nguyễn Sĩ Cứ đa cảm, đa nghĩ. Những hồi nhớ quá khứ bám đuổi, cật vấn. Những chiêm nghiệm thực tại xoáy lật, róng riết. Những yêu thương rạo rực trong kìm nén. Và vì thế, thơ anh mang chứa nỗi buồn buốt nhói khuất ẩn – một nỗi buồn chìm. Cái nỗi buồn mà nếu không có nó, thơ sẽ trơ ra xác chữ.
Nỗi buồn trong thơ Nguyễn Sĩ Cứ là nỗi buồn chia sẻ với những bất hạnh ở đời. Kể cả khi anh cất lên cái giọng tưng tửng của “kẻ thích đùa” thì đấy cũng là cái giọng đùa ra nước mắt:

giấc mơ mùa đói đàn chim thiên di
giấc mơ mùa no vỗ cánh dậy thì
giấc mơ mồ côi có giày để đánh
giấc mơ mùa lính cắt sốt đại ngàn
giấc mơ mùa quan chan chan bổng lộc
giấc mơ mùa học không có dạy thêm
giấc mơ mùa em đường cong mỹ mãn
giấc mơ mùa hạn nước đầy phù sa
giấc mơ không mùa mùa không mộng mị...
                                                           (Mơ mùa)
Đôi lúc, Nguyễn Sĩ Cứ muốn thoát khỏi những con chữ quen thuộc để chuyển tải tư duy của người thơ hiện đại. Sau khi kiểm lại thế kỷ “Người nghèo kiếm ăn chân trời góc bể/ Người giàu phát minh món lạ nhậu chơi”, anh như rơi vào miền không trọng lượng:
đêm,
chùm sao rụng
hố đen khép
vũ trụ đầm đìa
giấc mơ
toát mồ hôi lạnh

bảnh mắt,
nhét giấc mơ vào họng
sửa soạn bộ mặt kiếm cơm
giành giật với cả chính mình

đêm,
những linh hồn vô định
vẫn bền bỉ kiếm tìm
chốn ẩn cư
miền lạ.
                              (Nghe đêm)

Nhưng có lẽ sự bền bỉ kiếm tìm nhất trong thơ anh là món nợ quá vãng, món nợ với những người mẹ, người lính suốt thời chiến tranh dai dẳng:
Miền Trung là ai?
Tôi nhìn người mẹ
hoá đá vẫn khăn tang
                                        (Miền Trung nhớ bạn)

Tuổi xanh muối bạc vầng tóc mẹ
bạn không về
                      chống gậy
                                       mẹ xuôi tay
nén nhang cháy cong hình dấu hỏi
trước nấm mồ tôi người có lỗi
                                                       (Dấu lặng 2)

Nếu ngày đó mảnh bom to chút nữa
Hồn ta giờ chắc hẳn cũng phiêu diêu
......
Nên mỗi lần vào dịp này, tháng Bảy
Ta khóc người, người hỡi có biết không?
                                                         (Nhớ bạn)

Nguyễn Sĩ Cứ không chỉ bị ám ảnh về cuộc chiến khốc liệt mà chính anh là một người lính. Ngay cả những huyền tích lịch sử đầy bi hùng của dân tộc trong lịch sử cũng hiện lên trong thơ anh như là vẫn còn ở sát gần đâu đó quanh cuộc đời này. Một Đêm Bạch Đằng “trong chiến thuyền cháy/ áo máu chiến binh/ nhuộm rực tà dương”, một An Dương Vương “ôm hận xuống cửu tuyền”  “gửi lại trời xanh câu hỏi lớn không lời”, một Loa Thành “con ốc biển khổng lồ/ hội tụ nghìn cơn bão/ một đêm phản trắc hiện hình”...  đều là những ám ảnh không nguôi của người thơ đã mặc áo lính  một thời. Những ám ảnh không dễ gì xoá nổi.

Dù người ta có muốn trở thành nhà thơ hay không, thì khi làm thơ, người ta vẫn bộc lộ cái bản chất sâu thẳm trong tâm hồn mình. Đọc thơ ấy, người ta nhận ra anh qua tâm hồn ẩn chứa trong từng câu chữ. Nguyễn Sĩ Cứ là một con người cả nghĩ và chân thực. Một con người không chỉ có trách nhiệm với chính mình mà còn có trách nhiệm với cả nỗi đau, niềm lo của người khác:

Mẹ em phơi củi
Em phơi sách
Đời mẹ đời con phơi giữa trời
Mang mang ngầu lạnh phên hồng thuỷ
Làng trôi ra biển
Sao nghèo không trôi?
                                       (Phơi)

Tháng Ba ra phố
Chợt tiếng khẩn nài:
“Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại”
Nhận ra giọng nói làng mình
Tháng Ba..
như người mất máu.
                                      (Tháng Ba)

Một người thơ  có nỗi đau buốt nhói tưởng như quá tỉnh, lại đôi lần để lộ “gót Asin” của đam mê:
Em đi áo tím qua cầu
Nhuộm ta tím cả sắc màu Huế thơ
                                                           (Với Huế)

Ta về uống nắng thành cây
Uống hương thành gió
Uống say thành lời.
                                         (Lại về cùng Huế)

Mắt huyền trời ạ, đừng lúng liếng
Kẻo mà...
                 chết đuối cả Mùa Thu.
                                                             (Mùa cổ điển)
Để rồi nhận ra một sự thật trong một nỗi buồn say:
Thế là
khô khát và...
Mưa
Thế là
son phấn dối lừa và...
Em
Thế là
sao ướt và...
Đêm
Thế là
trăng rớt xuống thềm và...
Say.
                                          (Say)
Và có lúc thốt ra tự bạch như một người phẫn chí:
Đời người mấy trận mưa chan
Mấy phen nắng lửa thì tàn cuộc chơi?
Thà về đếm hạt mưa rơi
Và nghe cỏ hát những lời vô vi
                                                        (Tự khúc)

Ấy là lúc anh muốn thoát ra ngoài những đua chen phù du nơi trần thế? Nhưng cuộc đời thì vẫn thế, như quả đất vẫn chẳng ngừng xoay. Và con người vẫn phải vật lộn với cả chính mình, cho đến lúc nhận ra:
Cuộc phù thế chỉ như là đám bụi
Rồi cũng ba thước đất dưới cỏ mềm.
                                                            (Cuộc phù thế)

Thế kỷ này chúng ta chạy như điên
Vẫn hướng đích đám côn trùng dưới cỏ.
                                                             (Côn trùng)

Nguyễn Sĩ Cứ đã đẩy sự chiêm nghiệm đến chân tường để nhận chân cuộc sống. Và cuối cùng, anh đã gửi lòng mình vào câu thơ tưởng nhớ một nhà thơ đàn anh mà anh vô cùng quý trọng:
Người đi...
Trang viết neo lòng
Câu thơ để lại trắng trong đời mình.
                                                (Nhớ nhà thơ Phùng Quán)

Hình như khi làm thơ, Nguyễn Sĩ Cứ cũng hướng tới điều đó. Hướng tới điều Chân, điều Thiện, điều Trắng Trong ở cõi lòng mình. Và thơ anh đã phần nào đảm trách được điều anh hướng tới. Thơ ấy có thể in thành tập để lưu lại cái phần hồn của người thơ, dù anh có muốn trở thành thi sĩ hay không.
        Hà Nội, chớm Thu 2005
        N.T.T
(199/09-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • KỶ NIỆM 123 NĂM NGÀY SINH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

    TRẦN HIẾU ĐỨC

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG 

    Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.

  • THỤY KHỞI

    Lần hồi qua những trang thơ Lê Vĩnh Thái mới thấy chất liệu thơ từ Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010) cho đến nay Trôi cùng đám cỏ rẽ(*) (2012) hẳn là sự hối hả của dòng chảy ký ức miệt mài băng qua những ghềnh thác thời gian, mà ở độ tuổi của anh có thể bị ăn mòn.

  • Hoàng Minh Tường

    Nhà văn, nhà báo Lê Khắc Hoan xuất hiện và gây ấn tượng trên văn đàn khá sớm: Năm 1959, khi đang là giáo viên trường Hoằng Thắng, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Lê Khắc Hoan đã có truyện ngắn đầu tay Đôi rắn thần trong hang Pa Kham đoạt giải Khuyến khích báo Thống Nhất (Nguyễn Quang Sáng giải Nhất với truyện ngắn Ông Năm Hạng).

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Khi thơ như một tấm gương phản chiếu tâm hồn của tác giả, phản ánh nhận thức của người sáng tạo với cuộc sống quanh mình, chiếc bóng trong tấm gương ấy là một phần của sự thật. Đôi khi sự thật cũng chưa được diễn đạt trọn vẹn bằng ngôn ngữ của nhà thơ.

  • HOÀNG ANH 

    (Bài viết này, là nén hương lòng tôi thắp dâng lên linh hồn của anh Đơn Phương thân quý!)

  • LGT: Cho đến nay văn học Hậu hiện đại ở Việt Nam vẫn đang là một hấp lực đối với người sáng tạo lẫn phê bình, nhất là giới viết trẻ. Sông Hương đã từng có một chuyên đề sớm nhất về vấn đề này vào số tháng 7/2011.

  • BÙI VIỆT THẮNG  

    Bản thảo tập truyện Nhiệt đới gió mùa tôi nhận được từ nhà văn Lê Minh Khuê qua email cá nhân, in ra 115 trang A4, co chữ 12, đọc phải hết sức chăm chú vì mắt mũi có phần kém sút khi tuổi đã ngoại lục tuần.

  • VĂN GIÁ

    NHÀ VĂN VÕ THỊ XUÂN HÀ - Sống và làm việc tại Hà Nội. Quê gốc: Vỹ Dạ, Huế. Hiện là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 8). Trưởng Ban Nhà văn Trẻ, Tổng Biên tập Tạp chí Nhà văn. Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm (khoa Toán Lý). Tốt nghiệp thủ khoa khóa 4 Trường viết văn Nguyễn Du.

  • HỒNG NHU 

    Tạp chí Thơ số tháng 10 năm 2012 in bài “Hiểu và dịch bài thơ Đường Khúc Lương Châu như thế nào” của Phạm Thức. Tôi liền đọc ngay vì nói chung về Đường thi hàng nghìn bài nổi tiếng và nói riêng về tác giả là một nhà thơ tài danh: Vương Hàn.

  • THƯ PHÙNG QUÁN GỬI TÔ NHUẬN VỸ

    Sự thay đổi, tiến bộ của Việt Nam sau năm 1975 là to lớn và rõ rệt, đặc biệt trên lãnh vực đặc thù như Văn học, nếu nhìn lại những “vết sẹo” của một thời quá khứ để lại trên cơ thể nền Văn học, mà tiêu biểu là đối với nhà thơ Phùng Quán.

  • GS. VŨ KHIÊU 

    Lần này Vạn Lộc cho in trên 72 bài thơ Đường luật. Đối với Vạn Lộc, đây là một sự táo bạo và cũng là một thử thách với chính tài năng của mình.

  • TRẦN NGHI HOÀNG 

    “mảnh|mảnh|mảnh”, chỉ nhìn tập thơ, chưa cần đọc gì hết, đã thấy là một tác phẩm nghệ thuật tạo hình với bố cục táo bạo và vững vàng. Không offset bảy màu, không chữ nổi giấy tráng glassy, chỉ đơn giản hai màu đen và trắng. Đơn giản, nhưng rất công phu với khuôn khổ 12,5 x 26.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY*

    Tố Hữu là nhà cách mạng - nhà thơ.
    Cách mạng và thơ ca thống nhất hài hòa trong một con người. Một đời, Tố Hữu đồng thời đi trên Đường Cách MạngĐường Thơ. Với Tố Hữu, Đường Thơ và Đường Cách Mạng đồng hành như nhập làm một trong Đại lộ Đất nước, Nhân dân, Dân tộc vĩ đại trên hành trình lịch sử cách mạng.
    Đường đời Tố Hữu cùng là sự hòa nhập hai con đường này.

  • PHẠM PHÚ PHONG - HOÀNG DŨNG

    Trang viết đầu tay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc đời của người cầm bút. Đó là điểm mốc, là bước chân đầu tiên đặt lên con đường hun hút xa, đầy lo ngại nhưng cũng hết sức hấp dẫn.

  • NGÔ MINH

    Tôi gọi là “thầy” vì thầy Lương Duy Cán (Hà Nhật) dạy văn tôi hồi nhỏ học cấp 3 ở trường huyện. Tôi viết Chuyện thầy Hà Nhật làm thơ vì thầy vừa ra mắt tập thơ đầu tay Đá sỏi trên đường(*) khi thầy đã U80.

  • NGUYỄN QUANG HÀ

    Vợ một người bạn làm thơ của chúng tôi, trong bữa anh em tụ tập ở nhà chị "lai rai" với nhau, chị cũng góp chuyện, vui vẻ và rất thật thà.

  • BÙI VIỆT THẮNG

    (Đọc Hồng Nhu - Tuyển tập, Nxb Hội Nhà văn, 2011)

  • TRẦN THÙY MAI

    (Đọc Đi tìm ngọn núi thiêng của Nguyễn Văn Dũng, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2012)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Nhân đọc “Phạm Quỳnh, một góc nhìn” Tập 2. NXB Công an nhân dân, 2012)