Đọc tập thơ “Không thể đếm”

08:30 16/04/2009
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

Cách đây mười tám năm, trên chuyên mục “Trang viết đầu tay” của Tạp chí Sông Hương xuất hiện một chùm thơ ba bài của Nguyễn Thị Thái. Chùm thơ đã làm mọi người yêu thơ ở Huế trầm trồ tán thưởng. Những câu thơ mới lạ, mạnh bạo nhưng chân thành và chua xót:
Trên ngực anh hao gầy tôi đếm được
Những chiếc xương lộ liễu phơi bày
Tôi lần tay đếm, đếm và đếm
Cô đơn xin nắm lại giữa đêm này!  
               (Không thể đếm)

Hồi đó, các biên tập viên tạp chí Sông Hương rủ nhau tìm đến “tổ con tò vò”, thì ra Nguyễn Thị Thái là một cô thợ may khéo tay đang trọ may ở thôn La Chữ ở cách Huế hơn chục cây số. Ngày ngày may quần áo cho khách, đêm Thái chong đèn đọc sách, làm thơ. Đó là nét sinh hoạt hiếm thấy ở những người công nhân cùng lứa của chị! Từ đó thơ Thái thường xuyên xuất hiện trên các báo Tuổi trẻ chủ nhật, Sông Hương, báo Thừa Thiên-Huế, Chưyangshin, Văn Nghệ.v.v... Dần dần Nguyễn Thị Thái khẳng định mình, làm cho độc giả tin rằng đây là một cây bút thơ nữ chững chạc, một tác giả thơ nữ có bản sắc và ấn tượng.
... đàn ông nhiều như chim cánh cụt
đẹp lắm nhưng sợ nhầm giống nhau
nên tôi chẳng dám mơ màng
chỉ thiết tha với bạn bè
bạn tóc xanh gọi bằng anh
tóc bạc cũng bằng anh tuốt.
                   (Bạn trai)

Chị cũng nhiều câu thơ hay với cảm xúc tinh thế, nhiều câu lục bát nhuần nhuyễn, như “Bánh tròn xinh như vú”, “Bàn tay chạm biển hái toàn trăng rơi”, “Chuồn chuồn mỏi cánh vẫn bay / Còn bao nhiêu nữa mà ngày cứ xa...”. Chị cũng có nhiều hình ảnh lạ trong thơ như “Quả tim vuông, quả tim tròn”, “rượu như trăng”... Hẳn nhiên đây không phải là cách lộng ngôn chữ nghĩa như trong thơ một vài cây bút nữ gần đây, mà đây là tâm trạng thật, cái tình thật. Chính cái thật đã làm nên cái lạ, làm nên sự xúc động.

Trong cuộc thi thơ của Tạp chí Sông Hương 1996- 1997, Nguyễn Thị Thái giành được giải 3 với chùm thơ hai bài: “Bạn trai”, “Thiếu phụ”. Đây là hai bài thơ có nhiều phát hiện mới về hình ảnh, rất trực cảm, không hoa hòe hoa sói mà chinh phục được người đọc: “Đàn ông-
nhiều như chim cánh cụt” nhưng “Bạn tôi không giống loài cánh cụt”. Nên tôi có nhiều bạn trai. Nhưng khi đến thăm họ thì gặp phải “Đằng sau mắt khác long lên / Cùng tiếng rủa thầm cay độc”, và tôi đã khóc:
Tôi khóc bằng chân, đôi chân run bần bật
Không có nước mắt mà nghẹn chìm lồng ngực
                                        (Bạn Trai)

khóc bằng chân” là hình tượng thơ ám ảnh, lần đầu tiên tôi đọc được. Đúng là “khóc bằng chân” là rất nữ tính, những tôi nghĩ không chỉ phụ nữ, mà đàn ông cũng không ít khi “khóc bằng chân”. Nhưng chỉ có Thái mới thốt lên đường bằng thơ... Đêm của người “Thiếu phụ” mới là những đêm khủng khiếp. Người thiếu phụ “Mơ tay mình là thiếu nữ / Mơ tay mình là lửa thiêng”, rồi thiếu phụ “Vẽ vầng thơ nàng tặng gió / Vẽ điệu hờ nàng tạng dêm / Vẽ cho trời xóa bớt trăng”. Thật đau đớn và nghiệt ngã!

Nhưng, hình như Huế chưa đủ rộng để chị tìm hiểu, khám phá, Nguyễn Thị Thái đã tự tìm lên vùng đất Tây Nguyên phóng khoáng, nơi “Chân phấp phỏng rừng cao su lá rụng”, “Nụ cà phê như hoa tai bằng ngọc”... Đến DakLak, chị vẫn sống bằng nghề may và thơ. Thơ Thái ngày càng chín chắn và có chiều sâu hơn:
Em như con ve tìm tình yêu
Hát một đời một mình vẫn hát...

Nguyễn Thị Thái đã có gần hai mươi năm gom nhặt chữ nghĩa cho thơ, hai mươi năm chắt chiu những nỗi đời vất vả, buồn đau của mình để đúc nên những câu thơ buốn tê buốt. Nhờ sự tài trợ giúp đỡ của Hội Văn học nghệ thuật DakLak, chị mới mạnh dạn chọn trong hàng trăm bài thơ chép trong sổ tay ra thành một tập thơ mỏng “Không thể đếm”, mong gửi đến độc giả niềm an ủi, sẻ chia giữa cuộc đời còn lắm đen bạc này!
N.M

(201/11-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.