Đọc lại chương Ái dân trong Minh Mệnh chính yếu

09:02 10/11/2023

TRÀ LÊ

Đọc lại chương Ái dân trong "Minh Mệnh chính yếu" chúng ta có thể rút ra được một số nét về vua Minh Mệnh như sau:

Nhà vua có một quan niệm khá đúng đắn về lòng thương dân.

"Trẫm nối nghiệp gian lao to lớn của đấng Tiên đế ngày đêm quên ăn quên ngủ, mỗi khi dân cùng khổ ngộ tai biến thì gia bội sự tu tỉnh bản thân, chỉ suy nghĩ việc thi ơn huệ, nuôi dưỡng con dân, ngày đêm tư lự không dám nghỉ ngơi, há lại tự hưởng giàu sang mà không thương dân hay sao?"

Nhà vua thấy nguyên nhân cùng khổ của dân là do bọn quan lại tham nhũng "Quan lại tham nhũng là giặc sâu mọt của dân, mà trộm cướp nổi lên cũng vì đó vậy. Điều đó là điều trẫm ghét cay ghét đắng". Vua đã sai Phó đô thống chế Nguyễn Văn Hiếu, Hình bộ thượng thư Hoàng Kim Xán làm kinh lược Sơn Nam và Nam Định. Bọn ông Hiếu đến hai trấn ấy xét hỏi về sự tật khổ của dân, thẩm xét việc kiện cáo ngục hình, kiểm soát những quan lại tham tàn, không ai không kinh sợ.

Nhân những ngày khánh tiết lớn (ngày đại khánh tiết Từ khương Hoàng Thái Hậu thất tuần) - vua tha thuế cho các hạt trong ngoài trong năm ấy, cùng tất cả thuế tiền lúc còn thiếu từ các năm trước; phân biệt ban cấp cho các người già cả từ 80 tuổi trở lên tiền gạo, vải lụa. Có khi nhà vua quan tâm đến cả nắm xương khô ở dưới mồ. Năm Minh Mệnh thứ 20 gặp đại lễ Nam Giao xa giá vua đến vái cúng, vua thấy nhân dân tranh nhau xô đạp lên các ngôi mộ hai bên đường. Đến lúc xa giá vua về, vua xuống dụ nội các rằng: “Đầu năm tế lễ vốn là vì dân cầu xin thần nhân ban phước lành và vui vẻ cho dân mà dưới nghĩa trủng các nắm xương khô bị chà đạp lên như thế, mắt được trông thấy không khỏi động lòng trắc ẩn. Vậy ra lệnh cho các phủ thần Thừa Thiên: trước hết nên hiển sức cho dân biết là mỗi khi vua giá ngự đi qua nhân dân quây quần để xem, không được leo lên các ngôi mộ dẫm đạp, nếu trái lệnh sẽ bị đánh một trăm trượng và phạt đóng gông một tháng”.

Những lúc các địa phương gặp thiên tai hạn hán nhà vua chủ trương cấp phát cho các địa phương. Lúc đi Bắc tuần qua tỉnh Nghệ An, vua dụ rằng: “Tỉnh Nghệ An đất xấu dân nghèo, sự quẫn bách hơn cả các hạt. Nay lại gặp tai biến: như vậy trẫm rất thương xót. Ôi! Vua đối với dân, cũng như cha hiền đối với đứa con trẻ vậy, chưa lạnh đã nghĩ đến áo mặc, chưa đói đã nghĩ đến cho ăn no, há lại đợi cho đến lúc khóc hu hu rồi mới cho ăn hay sao?” Bèn khiến giảm thuế vụ mùa cho dân.

Đối với dân miền biển nhà vua xuống chiếu "Các cửa bể hay gặp tai biến nên dự trù tiền gạo để phòng giúp người bị tai nạn".

Lúc nhân dân Quảng Trị phần nhiều bị cảnh điêu linh, vua truyền mở kho thóc, giảm giá, cấp phát cho dân. Thóc một hộc trị giá tám tiền, binh lính và dân được một hộc, những người góa bụa, cô độc được một nửa. Lúc các tỉnh Hà Tiên, Vĩnh Thanh và Định Tường chứng ôn dịch làm dữ. Vua dụ các quan sở tại làm lễ kỳ yên. Người bị bệnh thì được cấp thuốc thang. Những người chết bất cần trai, gái, trẻ, già, đều cấp tiền tuất ba quan vải một tấm. Nếu hài cốt bộc lộ thì trích của công chôn cất.

Tại thôn Mậu Lương hạt Sơn Nam, nhà dân bị lửa cháy thiêu rụi hơn 80 nóc nhà, chết trên mười người, binh dân vì thế mà trốn chạy tán lạc. Quan Bắc Thành cho rằng lửa cháy chưa đầy một trăm nhà nên không đem việc ấy tâu lên. Vua nghe chuyện phán rằng: "Việc dân đau khổ tai biến như thế, mà cứ câu chấp thường lệ, thì sự uẩn khúc của dân làm sao đạt lên trên được?"

Nhà vua cũng nghiêm khắc trừng phạt những kẻ làm hại dân. Trấn Sơn Nam thuộc Bắc Thành bị vỡ đê. Lúc ấy con đê cũ của xã Lưu Khê bị Phó tổng Đặng Văn Mai đào trộm để bắt cá, khiến cho nước lụt vỡ đê, việc ấy đến tai vua. Nhà vua bèn chuẩn cho kịp thời lượng phát tiền gạo chẩn cấp cho những nhà dân bị tai nạn. Về ruộng lúa bị tổn hại thì đợi có khán án tâu lên sẽ được xét cho giảm thuế. Tội nhân Đặng Văn Mai bị chém ngang lưng, buông thây xuống sông. Lại chuẩn bị phái thêm binh lính cùng với dân chúng đắp lại con đê. Dân phu đều được cấp tiền gạo. Lại treo giải thưởng một ngàn lạng bạc, giao hẹn mùa thu năm nay mà gìn giữ đê điều chu đáo cho dân sự được yên lòng thì sẽ đem số bạc thưởng ấy quân cấp cho binh dân. Khi biết hạt Hưng Yên có cả nhà giàu quyên giúp cho dân nghèo khó được hai ngàn quan tiền, hơn sáu trăm hộc lúa, nhà vua đã quyết định ban khen cho một người có số quyên được nhiều - một bộ áo mão cửu phẩm, trọn đời được miễn thuế thân cùng công tác sai dịch, khen cho hai người đàn bà bốn chữ "lạc quyên nghĩa phụ". Lại còn ban ân cho con hoặc một người cháu được trọn đời miễn thuế thân cùng các công tác sai dịch.

Đối với dân tộc ít người nhà vua cũng có những mối quan tâm thích đáng. Khi biết dân nước Chân Lạp bị đói, đến nỗi có người phải ăn tấm cám, nhà vua bèn dụ cho Trương Minh Giảng chuẩn cho hai tỉnh Vĩnh Long, Định Tường chuyên chở một vạn vuông gạo đến nơi phát chẩn để dân ấy khỏi bị xiêu tán.

Về việc giá cả nhà vua đã chú ý nâng giá đường cát cho hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Vua dụ rằng: "mua giá phải chăng, là việc ích quốc lợi dân, không nên tính toán so cò vậy. Thiết nghĩ những nhà sản xuất đường cát, suốt năm phải siêng năng vận động vật dụng và sức lực, rất là khó nhọc, nên cấp cho giá bán, để họ kiếm được đồng lãi khiến cho người dân vui vẻ đưa đường đến nộp".

Nhìn chung, lòng thương dân của vua Minh Mệnh nằm trong khuôn khổ chế độ phong kiến. Nhà vua ban ơn cho nhân dân theo kiểu "phụ mẫu chi dân". Nhà vua chưa tìm cách đưa dân thoát khỏi đói nghèo bằng con đường cải cách kinh tế. Tuy vậy chúng ta cũng thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà vua.

T.L.
(TCSH55/05&6-1993)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG HƯƠNG TRANG 

    Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.

  • THỤY KHỞI

    Lần hồi qua những trang thơ Lê Vĩnh Thái mới thấy chất liệu thơ từ Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010) cho đến nay Trôi cùng đám cỏ rẽ(*) (2012) hẳn là sự hối hả của dòng chảy ký ức miệt mài băng qua những ghềnh thác thời gian, mà ở độ tuổi của anh có thể bị ăn mòn.

  • Hoàng Minh Tường

    Nhà văn, nhà báo Lê Khắc Hoan xuất hiện và gây ấn tượng trên văn đàn khá sớm: Năm 1959, khi đang là giáo viên trường Hoằng Thắng, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Lê Khắc Hoan đã có truyện ngắn đầu tay Đôi rắn thần trong hang Pa Kham đoạt giải Khuyến khích báo Thống Nhất (Nguyễn Quang Sáng giải Nhất với truyện ngắn Ông Năm Hạng).

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Khi thơ như một tấm gương phản chiếu tâm hồn của tác giả, phản ánh nhận thức của người sáng tạo với cuộc sống quanh mình, chiếc bóng trong tấm gương ấy là một phần của sự thật. Đôi khi sự thật cũng chưa được diễn đạt trọn vẹn bằng ngôn ngữ của nhà thơ.

  • HOÀNG ANH 

    (Bài viết này, là nén hương lòng tôi thắp dâng lên linh hồn của anh Đơn Phương thân quý!)

  • LGT: Cho đến nay văn học Hậu hiện đại ở Việt Nam vẫn đang là một hấp lực đối với người sáng tạo lẫn phê bình, nhất là giới viết trẻ. Sông Hương đã từng có một chuyên đề sớm nhất về vấn đề này vào số tháng 7/2011.

  • BÙI VIỆT THẮNG  

    Bản thảo tập truyện Nhiệt đới gió mùa tôi nhận được từ nhà văn Lê Minh Khuê qua email cá nhân, in ra 115 trang A4, co chữ 12, đọc phải hết sức chăm chú vì mắt mũi có phần kém sút khi tuổi đã ngoại lục tuần.

  • VĂN GIÁ

    NHÀ VĂN VÕ THỊ XUÂN HÀ - Sống và làm việc tại Hà Nội. Quê gốc: Vỹ Dạ, Huế. Hiện là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 8). Trưởng Ban Nhà văn Trẻ, Tổng Biên tập Tạp chí Nhà văn. Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm (khoa Toán Lý). Tốt nghiệp thủ khoa khóa 4 Trường viết văn Nguyễn Du.

  • HỒNG NHU 

    Tạp chí Thơ số tháng 10 năm 2012 in bài “Hiểu và dịch bài thơ Đường Khúc Lương Châu như thế nào” của Phạm Thức. Tôi liền đọc ngay vì nói chung về Đường thi hàng nghìn bài nổi tiếng và nói riêng về tác giả là một nhà thơ tài danh: Vương Hàn.

  • THƯ PHÙNG QUÁN GỬI TÔ NHUẬN VỸ

    Sự thay đổi, tiến bộ của Việt Nam sau năm 1975 là to lớn và rõ rệt, đặc biệt trên lãnh vực đặc thù như Văn học, nếu nhìn lại những “vết sẹo” của một thời quá khứ để lại trên cơ thể nền Văn học, mà tiêu biểu là đối với nhà thơ Phùng Quán.

  • GS. VŨ KHIÊU 

    Lần này Vạn Lộc cho in trên 72 bài thơ Đường luật. Đối với Vạn Lộc, đây là một sự táo bạo và cũng là một thử thách với chính tài năng của mình.

  • TRẦN NGHI HOÀNG 

    “mảnh|mảnh|mảnh”, chỉ nhìn tập thơ, chưa cần đọc gì hết, đã thấy là một tác phẩm nghệ thuật tạo hình với bố cục táo bạo và vững vàng. Không offset bảy màu, không chữ nổi giấy tráng glassy, chỉ đơn giản hai màu đen và trắng. Đơn giản, nhưng rất công phu với khuôn khổ 12,5 x 26.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY*

    Tố Hữu là nhà cách mạng - nhà thơ.
    Cách mạng và thơ ca thống nhất hài hòa trong một con người. Một đời, Tố Hữu đồng thời đi trên Đường Cách MạngĐường Thơ. Với Tố Hữu, Đường Thơ và Đường Cách Mạng đồng hành như nhập làm một trong Đại lộ Đất nước, Nhân dân, Dân tộc vĩ đại trên hành trình lịch sử cách mạng.
    Đường đời Tố Hữu cùng là sự hòa nhập hai con đường này.

  • PHẠM PHÚ PHONG - HOÀNG DŨNG

    Trang viết đầu tay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc đời của người cầm bút. Đó là điểm mốc, là bước chân đầu tiên đặt lên con đường hun hút xa, đầy lo ngại nhưng cũng hết sức hấp dẫn.

  • NGÔ MINH

    Tôi gọi là “thầy” vì thầy Lương Duy Cán (Hà Nhật) dạy văn tôi hồi nhỏ học cấp 3 ở trường huyện. Tôi viết Chuyện thầy Hà Nhật làm thơ vì thầy vừa ra mắt tập thơ đầu tay Đá sỏi trên đường(*) khi thầy đã U80.

  • NGUYỄN QUANG HÀ

    Vợ một người bạn làm thơ của chúng tôi, trong bữa anh em tụ tập ở nhà chị "lai rai" với nhau, chị cũng góp chuyện, vui vẻ và rất thật thà.

  • BÙI VIỆT THẮNG

    (Đọc Hồng Nhu - Tuyển tập, Nxb Hội Nhà văn, 2011)

  • TRẦN THÙY MAI

    (Đọc Đi tìm ngọn núi thiêng của Nguyễn Văn Dũng, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2012)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Nhân đọc “Phạm Quỳnh, một góc nhìn” Tập 2. NXB Công an nhân dân, 2012)

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Những buổi chiều tôi thường nhìn lá trước sân nhà cuốn bay theo gió. Chợt nghĩ, cái lẽ tự nhiên đó đã đẩy đưa một con người vào khúc quành của cuộc sống. Bởi tâm hồn ông quá nhạy cảm trước mọi sự, và ông có một lối diễn đạt chân thật, bình dị, gần gũi mà rất chua chát.