Đọc lại “Cỏ dại” của Lỗ Tấn (1881 - 1936)

09:10 01/10/2009
TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

Nhà văn Lỗ Tấn - Ảnh: wikimedia.org

Mọi người đều biết việc đánh giá tác phẩm văn học cụ thể phụ thuộc rất nhiều vào việc đánh giá tổng quát sáng tác của tác giả hoặc cả một thời đại. Khi đã có một đánh giá tổng quát, hoàn tất về một tác giả hoặc một thời kỳ văn học thì nhiều khi tính độc đáo của một tác phẩm cụ thể nào đó dễ dàng bị hi sinh.

Thật vậy, trong phương hướng chính trị hoá việc nghiên cứu Lỗ Tấn ở Trung Quốc, “nhà văn vĩ đại”, “vị chủ trương của cách mạng văn hoá”, “ngọn cờ của văn học cách mạng phản phong phản đế”, thì mọi tác phẩm của ông phải được đánh gía theo những tiêu chí đó. Trong bước đường tư tưởng của nhà văn từ chủ nghĩa cá nhân, giải phóng cá tính đến với lý tưởng cộng sản, từ tiến hoá luận đến giai cấp luận, thì rất dễ hiểu là một tác phẩm văn học như Cỏ dại sẽ không có nhiều ý nghĩa, khó có vị trí, thậm chí nhiều lắm, nó chỉ là một hiện tượng văn học có tính chất nhất thời, là khúc đệm để nhà văn tự vượt qua mà tiến tới chủ nghĩa cộng sản! Một khuynh hướng nghiên cứu khác là khẳng định Lỗ Tấn như một nhà văn hiện thực nghiêm nhặt, tỉnh táo, sâu sắc, vĩ đại, mà như vậy thì bút pháp tượng trưng, siêu thực trong Cỏ dại sẽ trở thành khó hiểu, không dung hoà, nó chỉ được xem như là một chút dao động của nhà văn trên con đường của chủ nghĩa hiện thực, hoặc một chút mềm lòng của nhà văn vĩ đại.

Một khuynh hướng phổ biến là nghiên cứu Lỗ Tấn theo chủ đề chủ nghĩa nhân đạo, theo đề tài nông dân và trí thức, theo đó, người ta thật khó mà đặt Cỏ dại vào vị trí nào trong hệ thống đề tài và chủ đề đó. Tôi nhớ vào cuối những năm năm mươi, nhà nghiên cứu Tiệp Khắc là bà Bentra Klêbôxôva đã cảm thấy nghiên cứu hình tượng tượng trưng trong Cỏ dại là một việc cực kỳ khó khăn và nguy hiểm, vì dễ rơi vào hố sâu suy diễn chủ quan (Lỗ Tấn và “Cỏ dại” của ông). Thời ấy người ta đánh giá Cỏ dại như tập thơ văn xuôi nói về cuộc đấu tranh riêng tư để tự vượt lên chính mình của nhà văn, về cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống thế lực đen tối đang ám ảnh, là tập thơ thể hiện nỗi u uất và buồn đau, nỗi căm hờn và tinh thần chiến đấu!

Ngày nay nhìn lại, cách đánh giá tác phẩm của nhà văn theo các xu hướng tư tưởng như vậy, tuy vẫn đúng, nhưng đã tỏ ra không còn đầy đủ, vô tình đã biến tác phẩm thành minh họa cho một mô hình tư tưởng. Nhiều nhà văn Trung Quốc đương đại tỏ ra tâm đắc với nhà văn Pháp gốc Tiệp Milan Kundera, khi ông viết trong tác phẩm Di sản đã mất giá của Xecvantex: “Trước đây tôi cũng tin rằng tương lai là kẻ duy nhất có tư cách đánh giá tác phẩm và hành vi của chúng ta, về sau tôi hiểu rằng chạy theo tương lai là kẻ nịnh bợ đê tiện nhất trong những kẻ nịnh bợ, là sự xun xoe khiếp nhược trước cường quyền. Nhưng nếu tương lại không còn là một giá trị đối với tôi thì đâu là điểm quy về của tôi? Thượng đế ư? Quốc gia ư? Nhân dân ư? Cá nhân ư? Câu trả lời của tôi tuy rất phi lý nhưng cũng rất thành thực.Tôi không lấy cái gì làm điểm quy về cả... Chỉ nhìn về tương lai là đã làm giảm đi ý nghĩa của hiện tại! Nhưng chính cái hiện tại mở đường cho tương lai”. Có lẽ tất cả các nhà văn đi tìm cứu cánh, sau chặng đường tan vỡ đều dễ dàng rút ra kết luận tương tự như Kundera. Điều đó có nghĩa là nghiên cứu tác phẩm phải trở về với tác phẩm cũng như nghiên cứu tác giả phải trở về với bản thân tác giả.

Giá trị nổi bật của Cỏ dại trước hết là thể hiện sự thể nghiệm của bản thân nhà văn đối với cuộc đời, đối với hoàn cảnh và thái độ sống của ông trước hoàn cảnh đó. Đọc Cỏ dại mới thấy hình ảnh tượng trưng là thích hợp nhất để nói lên một cách khái quát những phạm trù về cảm giác nhân sinh.

Thế giới trong Cỏ dại là thế giới tượng trưng đầy những đồng vắng, mồ hoang, địa ngục hoang phế, thung lũng băng giá, trận địa không có đối tượng, thế giới của hoang tàn và đầy bụi bặm. Đó là hình ảnh của đời sống xã hội văn hoá giữa và cuối những năm 20 của thế kỷ XX ở Trung Quốc, một thời kỳ cực kỳ đen tối. Thời gian trong các tác phẩm thường là đêm đen, hoàng hôn, đêm khuya. Thế giới trong Cỏ dại phần nhiều là thế giới trong mơ, giấc mơ có thể đưa nhà thơ trở về quá khứ hoặc vượt tới ngày sau, hoặc đi vào thế giới siêu thực. Trong thế giới ấy không gian sinh tồn rất hạn hẹp. Chiếc bóng muốn từ giã người chỉ quẩn quanh lựa chọn giữa ánh sáng và bóng tối: bóng tối sẽ nuốt chửng cái bóng, còn ánh sáng thì sẽ làm nó biến mất! Người khách trong bài Kẻ qua đường phía sau là con đường chứa đầy giả dối, không muốn quay lại, mà phía trước thì chỉ là nghĩa địa. Ngọn lửa hồng trong bài Ngọn lửa chết nếu ở trong hang băng giá thì bị đông cứng, trở thành ngọn lửa chết, nhưng nếu ra khỏi hang băng thì sẽ bị cháy hết veo. Đó là thế giới buộc con người phải tự lựa chọn quyết liệt. Thế giới Cỏ dại hầu như không có tương lai đáng để trông chờ. Cái cảnh vợ chồng đứa con gái sỉ nhục bà mẹ đã từng bán mình để nuôi nó khôn lớn, rồi đuổi bà đang đêm ra chốn đồng không mông quạnh đã cho thấy điều đó. Cái nghĩa địa trong Khách qua đường cũng vậy. Cái cảnh sau khi chết cũng không có gì lạ - kẻ yêu thì cầu cho được yên, kẻ ghét lại chúc cho thối rữa, còn ruồi nhặng được dịp vo ve. Những đoa hoa nhỏ trong bài Đêm thu đang mơ một mùa xuân, ngọn lá xanh mơ mùa thu, bốn mùa tuần hoàn cũng chẳng có gì mới. Có thể nói toàn bộ tượng trưng trong Cỏ dại là tượng trưng về hiện thực, nó hướng người ta quan tâm tới hiện thực. Toàn bộ hứng thú của nhà văn là hướng vào cảm nhận tình huống thực tại với những mâu thuẫn, lựa chọn khắc nghiệt của nó. Nhưng thực tại là gì cũng không nắm bắt được! Đó là một thực tại bi kịch, bóng đen lấn át tất cả. Lỗ Tấn đã tuyệt vọng tới mức hoài nghi các hy vọng. Ông nhắc lại bài thơ của Pêtôphi:

            Hy vọng là cô gái điếm

            Ai nó cũng quyến rũ, ai cũng dâng mời.

            Chờ đến khi anh tiêu phí hết cái quý nhất đời

            Là tuổi trẻ, cô ả liền rời bỏ anh.

Lỗ Tấn cảm thấy xung quanh là đêm tối đang tấn công. Ông cầm cái mộc ra chống đỡ, nhưng làm sao chống được, khi cả đằng trước và đằng sau cái mộc lại vẫn là đêm đen! Và ông rơi vào tình huống hoàn toàn tuyệt vọng, khi ngay cả đêm đen như cũng không phải là có thật! Thế giới của ông đầy xảo quyệt, ngụy trang, dối trá. Ông rơi vào một thế giới không có đối tượng. Trong bài Người chiến sĩ như thế ông viết: “Trên đầu những kẻ (kẻ thù mà ông gặp - TĐS) đều có đủ các loại cờ, thêu đủ loại danh hiệu đẹp đẽ, nhà từ thiện, học giả, nhà văn, trưởng giả, thanh niên, tao nhân, quân tử, dưới đầu lại có đủ các loại áo khoác, thêu các loại hoa văn, học vấn, đạo đức, quốc tuý, dân ý, logic, công ích, văn minh, phương Đông...:. Nhưng khi bị đánh gục thì những kẻ thù đều biến đâu mất, chỉ còn lại các danh hiệu, và hoá ra ông chỉ chống lại các danh hiệu! Ngay nỗi đau cảu bản thân mình ông cũng không cách gì cảm thấy được. Trong bài Văn bia mộ, ông mơ thấy một nấm mồ hoang, tấm bia lở lói, còn đọc được mấy chữ: “Moi tim tự ăn để muốn biết mùi vị nỗi đau. Nhưng đó là lúc đau đớn tột cùng thì còn làm sao biết được mùi vị nữa! Sau khi hết đau, mới từ từ ăn tim. Nhưng lúc ấy trái tim đã cũ rồi còn làm sao biết được mùi vị của nó nữa?!.” Vậy là hiểu môi trường đã khó, mà hiểu bản thân mình cũng hầu như không được! Qua những bài này, Lỗ Tấn đã thể hiện được cái giới hạn nhận biết hữu hạn của con người, đó cũng là một giới hạn bi kịch của con người muốn chiếm lĩnh thế giới. Thậm chí phải trải qua cái chết, con người mới nhận thức được mình. Trong bài Đề từ Lỗ Tấn nói: “Sinh mệnh quá khứ đã chết. Tôi rất vui mừng vì nhờ cái chết  đó mà tôi biết mình đã từng sống. Cái sinh mệnh chết đã rữa nát rồi. Tôi rất vui mừng, vì nhờ sự rữa nát đó mà tôi biết nó chưa từng trống không”. Cỏ dại tuy là tượng trưng nhưng lại là rất thực. Nhiều người đã nhận xét rất đúng Cỏ dại là nhật ký tâm hồn của nhà văn.

Giá trị nổi bật thứ hai của tập Cỏ dại là thể hiện một con người tỉnh táo, ngoan cường, một cá tính mạnh mẽ. Tập sách đã thể hiện tất cả tình cảm yêu, ghét, vui, buồn, khinh bỉ của một nhân cách lớn.

Lỗ Tấn là người khinh bỉ và căm ghét mọi thứ che đậy, giả dối và lừa bịp. Ông ghét nhất mọi thứ danh hiệu và chiêu bài để lừa mị. Cuộc sống không thể thiếu các danh hiệu, nhưng có lẽ Lỗ Tấn là người hiểu rõ hơn ai hết mặt trái và sự nguy hiểm của các thứ danh hiệu, chiêu bài! (trong bài Người chiến sĩ như thế). Lỗ Tấn ghét mọi giọng điệu và tư thế van xin đê tiện (Đứa van xin). Lỗ Tấn ghét sự vô ơn (Sự run rẩy trên đường đồi bại), ghét sự phỉnh nịnh (Lập luận), ghét sự xu phụ (Người thông minh, thằng ngốc và nô tài). Lỗ Tấn ghét  đám đông thích xem sự ồn ào, xem cảnh người khác ẩu đả, xâu xé, đánh ghét nhau (Trả thù) một cách ngu muội.

Có một loại người không sáng tạo cái gì, không làm được gì, nhưng thích xúm đen xúm đỏ, đưa chuyện, bình phẩm một cách ngu xuẩn mọi sự mà họ chẳng hiểu gì. Chúng ta đồng loã của các thế lực xấu xa, khiến Lỗ Tấn muốn trả thù. Lỗ Tấn có hai bài Trả thù dành riêng cho loại người đó.

Nhưng nổi bật nhất trong tập Cỏ dại  là hình ảnh một người sẵn sàng hy sinh và chiến đấu đến cùng, không run tay, không dao động. Đó là hình ảnh Người chiến sĩ như thế, lúc nào cũng sẵn sàng nâng cao ngọn lao ném vào thế lực đen tối. Đáng tiếc là ở bản dịch tiếng Việt, người dịch đã dịch hỏng hoàn toàn bài này, biến nó thành một nhân vật phản diện “Hạng chiến sĩ ấy”. Đáng lẽ phải dịch là “Nhưng anh ta đã nâng ngọn lao lên” thì lại dịch ngược lại thành “Nhưng anh ta đã  bỏ mũi lao xuống” một cách không sao hiểu được?! Lỗ Tấn khi là cái bóng, ông thà bị bóng tối nuốt chửng chứ không muốn choán phần ánh sáng. Lỗ Tấn khi là ngọn lửa chết, ông muốn được bùng cháy để toả sáng. Lỗ Tấn khi cần cầu xin ông sẽ vô vi và im lặng để nhận lấy phần trống không cho mình. Ông thà đi tới phía nghĩa địa chứ không trở lại với con đường đầy sự lừa dối! Ông sẵn sàng làm thằng ngốc để trổ một cái cửa cho ngôi nhà ngột ngạt, mặc cho người ta vu cáo ông là kẻ phá nhà. Là vị chúa Giêsu, ông thà không chịu uống thuốc giảm đau, mặc cho bọn đồ tể đóng đinh lên câu rút để cảm thấy được sự tàn bạo của chúng. Lỗ Tấn luôn là người hành động để chống lại sự tuyệt vọng. Nhưng Lỗ Tấn cũng chống lại mọi hy vọng và không tưởng! Chỉ có hành động và chiến đấu mới chứng tỏ tồn tại của chính mình. Đó là cả một triết lý nhân sinh của ông, triết lý của một người tri thức trong một xã hội lạc hậu. Lỗ Tấn là một con người cô đơn, nhưng là một con người mạnh mẽ. Lỗ Tấn là một Đông Ki sốt tỉnh táo và không hề hoang tưởng, một Đông Ki Sốt có ý thức, vì vậy mà ông là một hình tượng bi kịch sâu sắc.

Cỏ dại của Lỗ Tấn chịu ảnh hưởng sâu sắc của tác phẩm thơ văn xuôi Con đường tình yêu của Tuôcghenhep. Đó là một tập thơ rất nhiều tượng trưng. Thiếu nữ tượng trưng tuổi trẻ, tiên nữ tượng trưng thiên nhiên, rặng núi tượng trưng vĩnh hằng, bậc của tượng trưng cho trở ngại, buộc phải bước qua... Trong tập thơ Tuốcghenhép cũng xây dựng hình tượng một cô gái Nga quyết tâm hiến dâng tuổi trẻ cho Tổ Quốc, dù có phải chịu đói, chịu rét, chịu nhục, ốm đau, ngục tù... Đặc biệt, trong tập thơ của mình, Tuốcghenhép cũng nhiều lần sử dụng hình thức giấc mơ, như “Tôi mơ thấy”. Tuôcghenhep có 9 bài mơ, Lỗ Tấn có 7 bài mơ. Tuốcghenhép có nhiều bài nói đến cảm giác về tuổi già; đến cái chết, nấm mồ. Lỗ Tấn cũng có nhiều bài nói tới các chủ để ấy. Tuy nhiên Lỗ Tấn thể hiện một tinh thần chiến đấu không khoan nhượng, một tinh thần tự khẳng định bằng hoạt động. Lỗ Tấn tự khắc họa mình thành một kẻ qua đường rách rưới như kẻ ăn mày, như một kẻ lưu đày, và cũng tự khẳng định sự tồn tại của mình bằng hành động. Ông có vẻ như một nhân vật của chủ nghĩa hiện sinh. Nhưng khác với tất cả, Lỗ Tấn muốn phá huỷ cái địa ngục hiện tại, muốn dòng dung nham dưới mặt đất tuôn trào để thiêu huỷ mọi thứ cỏ dại. Cây táo trong vườn của ông vẫn vươn những cành nhọn đâm thẳng lên bầu trời kì dị mà lại cao. Điều nổi bật ở Cỏ dại vẫn là một tinh thần chiến đấu chống các thế lực đen tối.

Cỏ dại hoàn toàn không phải là một tác phẩm đệm, một sản phẩm quá độ trên bước đường tư tưởng của nhà văn Lỗ Tấn. Cỏ dại là một tác phẩm độc lập hoàn chỉnh có hệ thống hình tượng và nội dung triết lý nổi bật. Tính chất này càng ngày càng được các nhà nghiên cứu Trung Quốc đương đại nhận ra. Không phải ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu Tiền Lý Quần lấy hệ thống biểu tượng trong Cỏ dại làm điểm xuất phát để viết cuốn Tìm kiếm tâm hồn năm 1988, tái bản năm 1999; nhà nghiên cứu Uông Huy dựa vào nội dung Cỏ dại để làm sáng tỏ tinh thần “phản kháng tuyệt vọng” trong truyện ngắn Lỗ Tấn. Càng trở về với bản thân Lỗ Tấn, người ta càng hiểu sâu sắc hơn tính độc đáo trong sáng tác của ông. Đó cũng là bài học chung cho nghiên cứu văn học.

T.Đ.S
(188/10-04)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?