Đọc 'Xa Hà Nội', đồng cảm với Nhất Lâm

09:10 23/12/2011
NGÔ MINH Xa Hà Nội (Nxb Văn học 2011), cuốn tiểu thuyết thứ 3 và tập văn xuôi thứ 7 của nhà văn Nhất Lâm vừa ra mắt bạn đọc đầu tháng 9-2011. Tôi đọc một mạch hết 334 trang sách. Cuốn sách đặt ra nhiều vấn đề thú vị về cuộc sống và thời cuộc rất đáng suy nghĩ, chiêm nghiệm.

Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Tiểu thuyết Xa Hà Nội kể lại số phận nhân vật chính Lê Quang Định cùng một số bạn bè đồng hương Thừa Thiên Huế của anh trên đất Hà Nội từ sau năm 1954 đến sau năm 1975 với bao biến cố lịch sử suốt hơn hai chục năm ròng, diễn ra trong một không gian rộng từ Hà Nội đến chiến trường Khu 5. Câu chuyện bắt đầu từ mùa hè năm 1954, Định lúc đó là bộ đội bị thương ở Phò Trạch. Vợ anh, mới dạm hỏi, tên là Dịu, bế con từ dưới Đại Lược, Thanh Hương lên thăm chồng đang nằm ở trạm xá dã chiến. Sau đó, Định được dân công cáng từ Phò Trạch ra Quảng Trị, Vĩnh Linh, Quảng Bình, tới viện quân y. Rồi Định đến Hà Nội, đi học xây dựng cảng biển, cảng sông, được sang Liên Xô thực tập, rồi về làm giám đốc một công ty lớn ở đất Cảng Hải Phòng, sau đó lên làm vụ trưởng một vụ ở Bộ. Định yêu Lụa, một cô công nhân cảng. Để hai người cưới nhau, Hội đồng hương Thừa Thiên đã xác nhận là: “Định là có vợ ở quê thật nhưng mới đi dạm hỏi, chưa cưới, và sau hai năm theo Hiệp định Giơnevơ, hai miền không thống nhất cô ấy đã đi lấy một người làm cho chính quyền Sài Gòn”. Thế là cưới. Nhưng rồi Định được trên điều “đi B” vào Vũng Rô, Phú Yên, làm tổ trưởng một tổ 3 người đi điều tra tình hình luồng lạch, hoạt động của tàu chiến địch, để lên phương án cho những chuyến tàu không số chuyển vũ khí từ miền Bắc vào Khu 5 bằng đường biển qua bến Vũng Rô. Anh phải đi bộ vượt Trường Sơn 3 tháng. Hoàn thành nhiệm vụ, tổ của anh được cấp trên trực tiếp cho đi bằng thuyền vượt biển ra Bắc. Sau năm 1975, Định đành xa Lụa cùng đứa con ba tuổi, xung phong vào xây dựng quê hương mới giải phóng. Anh được Bộ xếp lương vụ trưởng, phụ trách một công ty xây dựng làm ăn rất năng động, phát đạt, nhưng lại bị tố oan là tham ô và cố tình làm trái pháp luật. Ông tự bào chữa, Hội đồng xử án đã đuối lý, nhưng họ vẫn cho ông làm trái nguyên tắc quản lý kinh tế. Họ còn tố thêm ông tội đi vào chiến trường rồi ra Bắc bằng tàu không rõ ràng. Anh em cũ đã ly tán cả. Ông Ba Thuyền chỉ huy thời ấy cho phép tổ của Định ra Bắc bằng thuyền thì đã hy sinh năm 1972. Thế là ông bị kết án 10 năm tù. Ngồi bóc lịch trong nhà giam Bảo Điền 7 năm ông mới được tha. Như thế là kể cả thời gian ngồi tù Định đã Xa Hà Nội gần 20 năm. Bây giờ anh đã thành một ông già 75 tuổi, còn đâu tuổi thanh xuân đầy nhiệt huyết giữa Hà Nội xưa mơ mộng...

Cùng với chuyện của Định, Dịu, Lụa, Xa Hà Nội còn có chuyện đời mộng tưởng, đau khổ của Khánh; chuyện tình nóng bỏng và hạnh phúc của Lai và Thu, đồng hương Huế ở Hà Nội. Chuyện tình yêu Tuyến - Chín Sành, những người con Phú Yên kiên cường chiến đấu, cũng là một mối tình đẹp trong chiến tranh. Chín Sành là du kích một làng biển sát chân đèo Cả. Cô có chồng đi tập kết khi mới cưới nhau chưa có con. Mười năm sau, không ngờ chồng của Chín Sành là Tuyến, người từng đi học hàng hải ở Liên Xô, bây giờ đến Vũng Rô để nghiên cứu luồng lạch trong tổ của Định. Thế là họ gặp nhau, ăn ở với nhau ngay trong căn nhà mình rất hạnh phúc, cho đến khi có mang mà bà mẹ Tuyến không biết... Câu chuyện nào cũng được tác giả xây dựng rất chăm chút, công phu.

Đọc Xa Hà Nội, ta thấy tác giả đã cung cấp cho người đọc một khối lượng kiến thức văn hóa về Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Quảng Trị, về Việt Bắc, Trường Sơn và vùng quê Phú Yên rất bổ ích, chứng tỏ người viết rất am tường về những vùng đất này. Tác giả tả mùa xuân Hà Nội: “Nắng mùa xuân thật đẹp và dễ chịu. Ban ngày khi thấy ánh nắng là ve kêu râm ran trên những cây sấu già lá xanh trong trẻo. Có lẽ bầu trời trên những phố có nhiều vòm xanh của lá sấu màu trời có sắc thái riêng hơn ở vòm trời nơi khác...”. Và đây là hình ảnh cô gái đất Cảng: “...con gái mỏ than còn thép hơn con trai ở nơi khác đến, mò lớ ngớ là dính đòn bằng những quả đấm thép chẳng kém gì cánh thợ lò. Các chị ở nhà sang tan ca ăn ngon lành một đĩa phở xào, một cặp bánh chưng, thêm ba quả trứng vịt, rồi tráng miệng bằng mấy quả chuối...”. Còn đây là chiến khu Dương Hòa, Hòa Mỹ, Ba Lòng, Đá Nổi: “...đất và rừng ở Dương Hòa, Hòa Mỹ, Ba Lòng, Đá Nổi là thánh địa của kháng chiến... Quân đội Pháp đã bao lần dùng sức mạnh, máy bay càn quét... Nhưng khi mới đến được bìa rừng là nếm mùi thất bại”. Đến vùng đất Phú Yên, Nhất Lâm nghĩ về các chúa Nguyễn: “Chúa Nguyễn khi vào Quảng Trị đóng dinh tại Ái Tử... Nhưng về mặt mở cõi thì Chúa đã sai thuộc tướng tiến đến núi Chóp Chài, rồi đến tận sông Ba. Hai thuộc tướng Nguyễn Thanh Phương và Lương Công Chánh đã giúp Chúa dựng lập làng, khai hóa vùng đất này. Bây giờ còn đó địa chỉ Đá Bia...” Đây là cảnh các cô gái Thái ở Tây Bắc tắm tiên, theo sự quan sát của Định trong một lần lên Tây Bắc công tác: “Các cô đang độ tuổi đầy đặn, tóc dài đen mượt, nước da còn trắng hơn trứng gà bóc. Từ bờ vai xuống chân là một kỳ công của tạo hóa dành cho con gái. Vai tròn, ngực đầy đặn, hai bầu vú nhô cao phía trước, không thể nào nói hết được cái đẹp bằng chữ nghĩa. Đó là sự tinh khiết của sương, của ngọc bích...”.

Tiểu thuyết Xa Hà Nội còn có những đoạn viết về nỗi bức xúc của con người trước những phán quyết ấu trĩ, cực đoan một thời. Bây giờ đọc lại, nghĩ lại mà thương đất nước. Đọc Xa Hà Nội tôi rất đồng cảm với nhà văn Nhất Lâm. Cuốn tiểu thuyết mới của anh đã giúp cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu thêm về cuộc sống một thời đất nước chia cắt, một thời Hà Nội chiến tranh, một thời con người phải vượt lên chính mình như thế nào.

Đầu năm 2010, Nhất Lâm khởi viết Xa Hà Nội, cuối năm anh bị đau tim nặng. Tất cả các cửa máu vào tim đều bị chẹn. Bác sĩ bảo mổ, không mổ thì nguy. Nhưng anh yếu sức không dám mổ chỉ uống thuốc và chờ... Thế mà anh đã vượt qua những con đau hành hạ để hoàn thành bản thảo Xa Hà Nội. Anh quả thực là một tấm gương lao động hết mình trên những trang viết.

N.M
Huế, tháng 9 năm 2011
(SH274/12-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬ

    Từ khi có bài báo ngắn Dân là gốc hay lấy dân làm gốc của Văn Như Cương (Văn nghệ số 48-1988), một số bạn đã viết bài bàn lại, nói chung cho rằng nói "Lấy dân làm gốc" vẫn không mất ý nghĩa tốt đẹp của nó. Tôi cũng tán thành với các ý kiến đó, mặc dầu tôi vẫn cho rằng dịch "dân là gốc" như anh Cương bàn cũng đúng.

  • NGUYỄN VĂN HÙNG    

    Chuột là loài vật luôn hiện hữu trong cuộc sống con người, bao gồm cả đời sống vật chất lẫn đời sống văn hóa tinh thần.

  • YẾN THANH  

    Đối với mỗi người Việt Nam, chuột là một “người hàng xóm” tự nhiên quen thuộc. Thật ra, trong lịch sử của loài người, có lẽ không loài động vật nào gắn bó tự nhiên với chúng ta hơn loài chuột.

  • NGỌC TRAI

    Văn học ta trong những năm gần đây đang có dấu hiệu chuyển hướng và đổi mới một cách đa dạng, phong phú.

  • DƯƠNG BÍCH HÀ  

    Văn hóa dân gian, trong đó có âm nhạc, là một bộ phận nghệ thuật quan trọng trong nền văn hóa đa dân tộc của Việt Nam. Nó phản ánh sâu sắc những tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của con người. Nó gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của nhân dân và phục vụ nhân dân. Song song với cuộc sống của con người, nó đã tồn tại qua mấy nghìn năm lịch sử đến nay.

  • VÕ CÔNG LIÊM  

    Bất cứ là văn, thơ hay biên khảo, ký sự… nói chung là viết.

  • HỒ THẾ HÀ  

    Lục bát là thể thơ đặc trưng thể hiện bản sắc và tâm hồn dân tộc Việt. Nó trở thành tình cảm, tâm thức sáng tạo và tiếp nhận của nhân dân từ ngàn đời nay, nó trở thành hữu thức và “vô thức tập thể” trong sinh hoạt tinh thần và sinh hoạt vật chất của toàn dân.

  • TRẦN HỮU SƠN     

    Đạo Mẫu là hình thức tôn giáo quan trọng ở Việt Nam. Hiện nay, đạo Mẫu đang có bước “chuyển mình” và phát triển mạnh mẽ cả về thiết chế và đối tượng tham gia. Vì vậy, đạo Mẫu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.

  • ĐỖ LAI THÚY

    Cuốn sách của giáo sư Trần Đức Thảo đề cập đến nhiều vấn đề, rộng và sâu. Bài báo này chỉ nói đến một luận điểm mấu chốt của ông, bản chất con người và những ngẫm nghĩ gợi ra từ đó, trong sự đối chiếu với văn học gần đây.

  • (Một vài trao đổi với nhà thơ Dương Tường)

    NGÔ THẾ OANH

           (thực hiện)

  • MAI LIÊN GIANG

    (Qua công trình Phản ánh nghệ thuật trong mỹ học của Lukács György của Trương Đăng Dung)

  • LƯỜNG TÚ TUẤN
                (Tặng Yến Linh và Thái Hạo)

    “Hình thức nghệ thuật nếu được hiểu đúng thì nó không tạo hình thức cho một nội dung đã có sẵn và được tìm thấy, mà là cái hình thức cho phép lần đầu tiên tìm thấy và nhận ra nội dung” (M. Bakhtin).

  • ĐỖ QUYÊN

    (Nhân đọc “Cái vú thừa” - tập truyện của McAmmond Nguyen Thi Tu, Nxb. Hội Nhà văn 2018) 

  • PHẠM QUYÊN CHI  

    Tâm lí học cổ điển đã xây dựng nên sơ đồ quy nạp của quá trình hình thành các đơn vị cơ bản của tư duy - và khái niệm duy lí gắn liền với từ.

  • YẾN THANH

    “Hoa dại như là niềm ân nghĩa. Nhìn hoa nghiệm ra sự hiện hữu của những gì tưởng đã tan loãng hư vô”
                                   [Nhụy Nguyên]

  • JOSEPH HILLIS MILLER    

    Không phải ngẫu nhiên khi cho rằng quan niệm về cái kết ở trong truyện rất khó để xác định rõ ràng, cho dù là “về mặt lý thuyết”, hay với một cuốn tiểu thuyết nhất định, hoặc với các tiểu thuyết ở một thời kỳ nhất định. Quan niệm về cái kết ở trong truyện vốn dĩ là “không thể giải quyết được.” (undecidable).

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG    

    Tôi đọc trường khúc Mẹ Về Biển Đông của Du Tử Lê lần đầu giữa một mùa hè khô hạn, mặt đất nắng cháy nứt nẻ thoảng mùi hoa hồng dại, thứ cây mọc nhiều ở Alberta.

  • HỒ TIỂU NGỌC    

    Trong bầu không khí dân chủ tối đa và nhận thức tối đa của con người thời hậu chiến, nền thơ Việt Nam, trong đó có thơ nữ lại nhanh chóng hòa nhập và tạo ra những góc nhìn đa dạng về cuộc sống.

  • MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN     

    Bài thơ chữ Hán Điệp tử thư trung (Con bướm chết trong sách) được xếp ở sát cuối phần Làm quan ở Bắc hà (1802 - 1804), trong Thanh Hiên thi tập(1).