Đọc “Tìm trong trang viết” của Hồ Thế Hà

09:40 25/12/2009
LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

Nhà phê bình Hồ Thế Hà

Tập sách khá dày dặn (gần 300 trang), tròn trịa (30 bài viết), cân xứng (3 phần, mỗi phần 10 bài), chặt chẽ (mỗi phần hướng về một chủ điểm (1): thơ, văn xuôi và thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên). Tưởng cũng nên nhắc lại, Hồ Thế Hà là một nhà giáo, nhà thơ, người làm công tác phê bình nghiên cứu. Những tố chất riêng trong mỗi con người ấy đã tụ hội luôn nên một phong cách phê bình khá đa dạng. Phong cách ấy chính là sự quyện hòa thú vị giữa tính qui phạm mẫu mực, chất tài tử tung phá và tính logic của tư duy khoa học.

Hồ Thế Hà bước vào những thế giới nghệ thuật, những trang viết, trước hết với tư cách là một nhà thơ. Những bài thẩm định về thơ của Hồ Thế Hà bộc lộ rõ thế mạnh của anh. Trong một cuộc hội thảo văn học, nhà văn Nguyễn Quang Thiều ước mong các nhà phê bình phải “nghe được tiếng kêu của sự trở dạ trong sáng tạo của nhà thơ” (2). Phải chăng bằng sự đồng cảm, đồng điệu, qua mối tương giao giữa những tâm hồn thơ, Hồ Thế Hà đã nghe được “tiếng kêu trở dạ” ấy ở Xúc xắc mùa thu ru trong cỏ, Thơ Hồng Nhu và những thao thức đêm, Thơ tạo nghĩa của Nguyễn Khắc Thạch, Khoảng trời con gái (của Lâm Thị Mỹ Dạ) v.v… Không hiểu sao tôi cứ muốn trích ra những lời thẩm định về thơ của Hồ Thế Hà (hay là những lời độc thoại âm thầm của anh về chính thơ mình). Nhận định về thơ Hoàng Nhuận Cầm, Hồ Thế Hà viết: “Đó là thơ gan ruột, là sự khắc khoải, thao thức của nỗi buồn và khát vọng vĩnh hằng”. Anh gọi thơ Hồng Nhu là “thơ của những khao khát đêm, thi pháp đêm để hiểu phía ngày chói chang nắng ấm”. Đi vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Khắc Thạch, anh viết: “Tôi gọi đó là thơ tạo nghĩa mà Nguyễn Khắc Thạch là người kiếm tìm không mỏi trên mọi nẻo hành hương của cuộc đời, và sâu hơn trên mọi nẻo hành hương tìm về các triết thuyết để góp nhặt những vẻ đẹp vĩnh cửu mang “KHÁT VỌNG NGƯỜI”. Xem ra Hồ Thế Hà thích sử dụng những từ tạo dáng, tạo thanh. Nhưng phải chăng những “khát vọng người”, những “thao thức đêm”, những “khắc khoải của nỗi buồn và khát vọng vĩnh hằng” ấy chính là hồi âm của cơn trở dạ thi ca vừa đau đớn vừa phấn khích, mà bằng trái - tim - thi - sĩ - dại - ngộ, Hồ Thế Hà đã thấu suốt cõi lòng sáng tạo của các nhà thơ và bằng tư duy của một nhà khoa học, anh đã đúc kết thành những cá tính thơ.

Những bài viết về văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn cũng là những bài hay, nhiều phát hiện. Trên cái nền chung của sự phát triển ồ ạt truyện ngắn hôm nay, điềm tĩnh, thận trọng Hồ Thế Hà từng bước khẳng định đặc trưng thẩm mỹ của truyện ngắn các nhà văn trẻ. Thế giới truyện ngắn Trần Thùy Mai qua “Trò chơi cấm”, Đặc sắc truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh là những trang viết gây ấn tượng. Vận dụng nhuần nhuyễn thi pháp học, Hồ Thế Hà đi sâu vào từng trang viết để phân biệt nét riêng của mỗi nhà văn. Đó là “bút pháp hiện thực pha màu huyền thoại” trong văn Trần Thùy Mai. Đó là “kiểu văn chương đồng vọng tiếng nói của thế hệ mình, kiểu văn khi người ta trẻ” của Phan Thị Vàng Anh. Với các cây bút nữ, Hồ Thế Hà đặc biệt chú ý đến chất “nữ tính” trong văn phong của họ. Vì vậy, ngòi bút của anh linh hoạt, mềm mại, thấu tình. Viết về V. Bưcốp, Thạch Lam, những tầng vỉa đã được đào sâu, khai phá, tác giả tỏ ra vẫn tự tin và có đóng góp mới.

Phần III của tập sách dành riêng cho thơ Chế Lan Viên. Với nhiều công sức và niềm đam mê không kìm nén được, Hồ Thế Hà đã làm sống dậy, sinh động hóa đời người - đời thơ Chế Lan Viên - một con người nghệ sĩ tài hoa mà những vần thơ đã may mắn thoát ra ngoài qui luật băng hoại nghiệt ngã của thời gian. Giữa bộn bề những ý kiến, những bài viết, những công trình nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên, tác giả vẫn có những đóng góp thực sự khoa học, với không ít những phát hiện lý thú, sâu sắc, có sức thuyết phục. Tưởng như thừa và vô lý, nhưng thật bất ngờ Hồ Thế Hà phát hiện “chất thơ của một hồn thơ”. Anh dựng lại chân dung “người lạ mặt giữa thế giới Điêu tàn”. Anh lần giở từng trang di cảo thơ Chế Lan Viên, giải mã “bức thông điệp đầy sức ám ảnh về qui luật thời gian”… Bằng 10 bài viết ngắn, Hồ Thế Hà thực sự đi sâu vào vương quốc nghệ thuật vừa rộng rinh vừa sâu thẳm của Chế Lan Viên, từ “niềm kinh dị” Điêu tàn đến Di cảo thơ - “những lá thơm hái lúc về già”. Đây là một sự khai phá toàn diện về thơ Chế Lan Viên. Đóng góp ấy thật sự có giá trị.

Ngoài ra, mảng nghiên cứu về văn học Huế, Quảng Trị của Hồ Thế Hà cũng là một việc làm có ý nghĩa trong tình hình nghiên cứu văn học khu vực miền Trung xem ra còn mỏng hiện nay. Một mặt, tác giả khẳng định phong cách của các cây bút Thừa Thiên Huế. Hồng Nhu, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Khắc Thạch, Trần Thùy Mai, Dương Phước Thu… mặt khác, Hồ Thế Hà dựng lên một cách bao quát diện mạo văn học khu vực, xác định những “tố chất vùng”, những màu sắc địa phương trong bản sắc dân tộc. (Sức vẫy gọi của một vùng văn học, Vài nét về lực lượng sáng tác trẻ Thừa Thiên Huế, Đọc Cửa Việt nghĩ về bản sắc văn hoá một vùng đất…). Những bài viết này dù chưa đi sâu, chú ý đến diện nhiều hơn là điểm, nhưng theo tôi đấy là một đóng góp đáng trân trọng trong việc nghiên cứu văn học Huế nói riêng và văn học miền Trung nói chung, đang đặt ra như một vấn đề cấp thiết hiện nay.

Tập tiểu luận, phê bình của Hồ Thế Hà tập hợp nhiều bài viết ở nhiều thời điểm khác nhau nên chất lượng chưa đồng đều. Đấy là điều tất yếu. Nhìn chung Tìm trong trang viết gây được ấn tượng - ấn tượng về một “trực giác cá nhân” nhạy bén, ấn tượng về một cách làm việc nghiêm túc, khoa học. Tôi đồng tình với lời nhận định của Phạm Phú Phong “Anh như một người làm vườn, đầy tự tin rằng tình yêu cây lá của mình nhất định sẽ thu được mùa quả chín. Mùa quả chín đó là “Tìm trong trang viết” (3). Dẫu trong mùa quả chín ấy còn lẫn vào vài quả non, xanh, nhưng có sao đâu - mùa vẫn bội thu…

L.T.H.
(122/04-99)

---------------
(1) Đọc Tìm trong trang viết của ho, nxb Thuận Hóa, Huế, 1998.
(2) Ba cuộc hội thảo về tình hình văn học Việt Nam hiện đại, tạp chí văn học, số 1/1994.
(3) Phạm Phú Phong - thay lời giới thiệu






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BÙI NGUYÊN

    Ngửa (Nxb. Hội Nhà văn, 2017) không đơn thuần chỉ là tập truyện ngắn với nhiều hoàn cảnh thân phận và sự trầm tư riêng biệt của cư dân Sài Gòn đã cùng tác giả đồng hành qua hơn nửa thế kỷ sinh cư trên cái thành phố vốn dĩ là trung tâm sinh hoạt sôi động năng nổ với đầy đủ hương vị sống. Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi khi lần lượt mở từng trang của tập truyện ngắn ngồn ngộn hoài niệm của nhà văn Ngô Đình Hải.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    1.
    Trước khi có Hàn Mặc Tử, người ta chỉ biết có hai loài đáng trọng vọng là “Thiên thần” và “loài Người”. Nhưng từ khi có Hàn Mặc Tử, người ta mới biết còn có thêm một loài nữa, đó là “loài thi sĩ”.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY      

    Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ - thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác.

  • LÊ MINH PHONG

    (Nhân đọc Chậm hơn sự dừng lại của Trần Tuấn, Nxb. Hội Nhà văn, 2017)

  • TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG

    Tư tưởng văn học của Tản Đà (1889 - 1939) không thuần nhất mà là sự hỗn dung của “tư tưởng Nho gia, tư tưởng Lão Trang và tư tưởng tư sản”1.

  • MỘC MIÊN (*)

    Là một trong những cây bút trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ là người có duyên thầm trong thơ mà còn có duyên kể chuyện đặc biệt là những câu chuyện dành cho lứa tuổi thiếu nhi.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Trong thơ trữ tình, lịch sử không tồn tại. Trường ca làm chúng tồn tại.


  • (Ý kiến của Nguyễn Văn Bổng, Xuân Cang, Nguyễn Kiên, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến)

  • Sách chuyên khảo “Sự ra đời của đế chế Nguyễn” của A.Riabinin tiến sĩ sử học Xô Viết nghiên cứu lịch sử xã hội - chính trị của Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.

  • LÊ MINH PHONG

    (Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Trong sách “Nhìn lại lịch sử”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tác giả Phan Duy Kha viết bài “Một bài thơ liên quan đến lăng mộ vua Quang Trung”.

  • BÙI KIM CHI

    “Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).

  • TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI

    Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm.

  • NGUYỄN THẾ QUANG

    Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.

  • NGUYỄN HỮU SƠN

    Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi.

  • NGUYÊN QUÂN

    Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.

  • TUỆ AN

    Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.

  • NGUYỄN THỊ THANH LƯU

    Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.