Đọc “Đi tìm” của Lê Viết Xuân

14:53 04/02/2009
NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

Đúng là tập thơ “đi” thật. Trong 74 bài thơ trong tập thì đã có hơn hai chục bài anh viết dọc đường lang thang. Gần thì “Với Quảng Điền”, xa có “Hà Tiên”, “Cần Thơvà cách một nửa bán cầu thì “Ép Phen”, “Sông Sein”... Đúng như anh nói: “Đi cùng năm tháng âm vang/ Lặn vào tâm tướng đa mang hồn người”. Càng đi xa, càng tìm nhiều, con người càng trở nên đa mang. Đọc cả tập thơ, ta thấy anh lang thang. Người giàu nội tâm cho nên bất cứ mảnh đất nào anh tới đều có những xúc động và ít nhất cũng làm được một bài tứ tuyệt.
Nơi khởi nhịp bước chân đầu tiên, Lê Viết Xuân đã thật sự rung động đối với ngôi nhà của mình, cho nên anh đã có những câu thơ đầy ấn tượng về ngôi nhà xinh xắn đó:
            “Chuông chùa vẳng tiếng nhặt thưa
            Rừng thông mơ khúc đàn xưa chốn này
            Hương xưa hoa cỏ dãi bày”
                                               
(Nhà tôi).
Ngôi nhà của LêViết Xuân thật đẹp, có tiếng chuông chùa vẳng tới, có rừng thông, có tiếng đàn của gió, và có hoa cỏ đầy hương thơm. Nhà ấy đã tạo nên một tâm hồn lắng đọng.
Từ đây Lê Viết Xuân đi tìm.
Anh đã tìm được những kỷ niệm của một thời chiến tranh. Xa đó, nhưng bỗng gặp mặt là rưng rưng, là thấy trong ký ức mình sống lại một thời.
            “Con thuyền luồn dưới rừng tràm
            Hoang sơ quá, dáng em làm tôi nghiêng
            Em là cô gái giao liên
            Áo bà ba mũ vải mềm đến thương”
                                                (Xẻo Quýt)
Những rung động ta gặp lại nơi anh ở Xẻo Quýt thật trẻ trung, thiêng liêng. Song phải đến Trường Sơn, rung động chiến tranh mới thật rõ nét:
            “Chia nhau viên thuốc cọng rau
            Chuyền tay đọc trang thư nhàu nắng mưa
            Cắn răng cơn sốt giữa trưa
            Bồng bềnh cánh võng trăng vừa nhô lên”
                                                (Trường Sơn trong anh)
Câu thứ tư trong khổ thơ này không phải là trăng của Trường Sơn. Trường Sơn không thấy trăng vừa nhô lên đâu. Tuy nhiên câu thơ vẫn cảm động vì cơn sốt từ trưa, đến tận tối vẫn “bồng bềnh” trên cánh võng. Cái lơ mơ của cơn sốt vừa qua, bắt gặp ánh trăng đầy thi vị, yêu đời. Đây đúng là tâm trạng của người lính trẻ.
Phải có cảm giác nặng trĩu của chiến tranh ấy, Lê Viết Xuân mới tìm thấy được bóng dáng hoà bình trong một phiên chợ quê thật ngọt ngào:
            “Chợ quê hay chính hồn quê
            Mà khôn nguôi gọi ta về người ơi”
                                                (Chợ quê)
Đó đúng là phiên chợ thời bình mà Lê Viết Xuân tìm và gặp. Nhưng cái thấm đẫm thời bình mà Lê Viết Xuân gặp là tính người. Không hiểu sao gặp tình người mà Lê Viết Xuân lại xao xuyến đến vậy:
            “Tình yêu sống giữa cuộc đời
            Thuỷ chung nhân hậu với người mình ơi”
Cũng trong bài thơ này ta thấy tác giả trăn trở về cái tình người ấy. Tuy không nói toẹt ra, nhưng cứ cái hồn thơ, ta thấy tác giả đã từng trải để nhìn đời thật rành rọt:
            “Chẳng ai xin chẳng ai cho
            Cuộc đời là những giấc mơ nối dài
            Biết ai khôn dại hơn ai
            Tình người đâu phải một mai một chiều”.
                                                (Mình ơi)
Người đọc yêu thích sự trăn trở này. Bởi chính cuộc đời có nhiều mặt. Không thể tô hồng và cũng không thể xoá bỏ là xong. Nó cứ tồn tại cùng năm tháng. Vậy phải biết nó để mà sống cho đúng lòng mình.
Không dễ gì có cái day dứt này:
            “Tôi nghe lời đường mật
            Tôi nghe lời đắng cay
            Giữa cuộc đời chân thật
            Trong sắc màu cỏ cây”
                                                (Tháng 3)
Đó là những câu thơ hay nhất trong tập “Đi tìm” của Lê Viết Xuân. Người đọc cảm thấy suốt mấy chục năm cuộc đời đi và tìm, cuối cùng Lê Viết Xuân đã tìm thấy. Ấy là tình người.
Thơ Lê Viết Xuân chân thật như cuộc đời anh. Đôi khi thơ anh quá dễ dãi nữa:
            “Trường cấp III Quảng Ninh
            Trên miền đất lửa Quảng Bình quê ta
            Gửi lời theo những bài ca
            Say sưa chuyện cũ ngỡ là mới đây
                                                (Bên ché rượu cần)
Nó không còn là thơ nữa mà là diễn ca.
Hai yêu cầu ngặt nghèo của thơ: thực và ảo. Cái thực trong thơ Lê Viết Xuân rất rõ. Nhưng thiếu cái ảo. Chính cái ảo mới làm thơ bay lên được.
Lê Viết Xuân vẫn tiếp tục đi tìm. Anh sẽ tìm đến thơ. Tin rằng anh sẽ gặp thơ mình, tìm thấy đúng là thơ của mình.
            N.Q.H

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRIỀU NGUYÊN

    1. Đặt vấn đề
    Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ  

    (Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    (Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)

  • VŨ TRỌNG QUANG

    Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:

  • GIÁNG VÂN

    Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.

  • LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.

  • Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.

  • Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.

  • Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.

  • NGUYỄN VĂN MẠNH
     
    Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng

  • MAI VĂN HOAN

    Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.

  • Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.

  • Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.

  • NHƯ MÂY

    Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ
          Trích Tự truyện “Số phận không định trước”

    Từ ngày “chuyển ngành” thành anh “cán bộ văn nghệ” (1974), một công việc tôi thường được tham gia là “đi thực tế”.

  • NGÔ MINH

    Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.

  • NGUYÊN HƯƠNG

    Ở Huế, cho đến hôm nay, vẫn có thể tìm thấy những con người rất lạ. Cái lạ ở đây không phải là sự dị biệt, trái khoáy oái oăm mà là sự lạ về tư duy, tâm hồn, tư tưởng. Thiên nhiên và lịch sử đã vô cùng khoản đãi để Huế trở thành một vùng đất sản sinh ra nhiều cá nhân có tầm ảnh hưởng lan tỏa. Và trong số những tên tuổi của Huế ấy, không thể không nhắc đến cái tên Thái Kim Lan.

  • GIÁNG VÂN

    Cầm trên tay tập thơ với bìa ngoài tràn ngập những con mắt và tựa đề “Khúc lêu hêu mùa hè”(*), một cái tựa đề như để thông báo về một cuộc rong chơi không chủ đích, và vì vậy cũng không có gì quan trọng của tác giả.

  • PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU - PHẠM PHÚ PHONG

    Ở miền Nam trước năm 1975, những ai học đến bậc tú tài đều đã từng đọc, và cả học hoặc thậm chí là nghiền ngẫm Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ - một trong những bộ sách giáo khoa tương đối hoàn chỉnh xuất bản ở các đô thị miền Nam, cho đến nay vẫn còn giá trị học thuật, nhất là trong thời điểm mà ngành giáo dục nước ta đang cố gắng đổi mới, trong đó có việc thay đổi sách giáo khoa.