Đọc "Đồi trở gió" (*)

09:50 09/01/2009
HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

Lãng mạn, dung dị và đằm thắm, đó là những nét nổi bật của tiểu thuyết: "Đồi trở gió” – cũng là những yếu tố làm nên sự thành công của tác phẩm này. Tiểu thuyết về hợp tác xã nông nghiệp Võ Lâm (Võ Lâm là tên một làng của tỉnh Nghệ An) trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước như những làng quê khác ở nửa nước phía Bắc lúc bấy giờ, đàn ông con trai Võ Lâm đi chiến trường đánh giặc hết, ở hậu phương chủ yếu là người già phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là những người mẹ, người vợ, người em gái vừa làm phần việc của mình, vừa gánh vác thêm phần việc của người ra trận. Sản xuất trên đồng ruộng Võ Lâm để có lương thực nuôi người hậu phương và gởi ra nuôi người tiền tuyến, vừa phải trực chiến bắn máy bay Mỹ không cho nó đến đánh phá. Trong quá trình vừa sản xuất vừa chiến đấu, Hợp tác xã Võ Lâm đã làm nên những thành tích đáng tự hào: lúa không thiếu một cân, quân không thiếu một người, bắn rơi máy bay Mỹ trên đồng làng, bắt sống giặc lái Mỹ…

Đó là những người nông dân bình thường giản dị như ông Mạn, cô Mân, ông Lãng, anh Hùng, cô Hường, cô Ngân… Mân có chồng là Đương sĩ quan dự bị được gọi tái ngũ. Sau thời gian tập trung huấn luyện để chuẩn bị vào chiến trường, đơn vị cho Đương tranh thủ về thăm gia đình một hôm. Họ cưới nhau ba năm mà chưa có con. Để làm yên lòng nhau, Mân và Đương đều tỏ ra vui vẻ thanh thản hồn nhiên nhưng cả hai đều da diết mong lần gặp nhau nầy có thể sẽ mang thai. Nhưng rồi niềm hy vọng mong manh cũng biến mất. Đương ra chiến trường thời gian đầu cứ vài ba tháng có thư về nhà, về sau thưa dần rồi bặt tin hẳn. Thương nhớ, lo lắng khắc khoải… nhưng Mân đã nén lòng lại lúc nào cũng tỏ ra vui tươi để yên lòng mẹ đẻ và mẹ chồng. Một mình quán xuyến việc nhà việc nước. Mân phụ trách đội thanh niên xung kích, Mân bí thư đoàn thanh niên cộng sản, Mân chủ nhiệm hợp tác xã, Mân phó bí thư chi bộ… Cùng một lúc gánh vác nhiều trọng trách mà trách nhiệm nào Mân cũng muốn chu toàn, nên lúc nào bà con cũng thấy Mân bận rộn, tất bật, nhưng lạ lùng thay, cái vẻ đẹp mặn mà tươi tắn trẻ trung chẳng những không mất đi, mà cứ ngời lên như nắng chiều xuân. Tham gia ban chỉ huy công trường đắp đập thuỷ lợi Khe Sung để lấy nước tưới tiêu cho đồng ruộng, chỉ đạo và đôn đốc các đội sản xuất lúa và rau màu đúng thời vụ, rồi chăm bón lúa, thu hoạch lúa…

Việc nhiều người ít nên Mân lúc nào cũng cố gắng bố trí nhân lực hợp lý để giành giật với trời đất và cả với giặc Mỹ từng hột lúa củ khoai. Mỗi lần giặc đánh bom người chết, xóm làng nhà cửa tan nát, đồng ruộng bị cày xới, mất bao công sức của cải, thâm độc hơn, giặc Mỹ còn ném bom nổ chậm và bom từ trường. Những quả bom từ trường nằm lẫn trong các ruộng lúa chín được các kỹ thuật viên lần lượt vô hiệu hoá, đồng thời phải thu hoạch lúa cho xong. Bom nhiều, vô hiệu hoá không xuể, thu hoạch lúa bằng liềm bằng hái sẽ xúc tác làm bom nổ, bà con đành bấm bụng vứt bỏ những khoảnh lúa rộng có bom… Nhưng chính Mân đã dùng hai bàn tay không tuốt lúa chín kề sát bên bom mà không hề hấn gì. Một mình đêm trăng ra đồng tuốt lúa thể nghiệm có kết quả tốt mới đem phổ biến cho các đảng viên, đoàn viên cùng làm. Một phụ nữ thông minh xinh đẹp dũng cảm giỏi giang mẫu mực là vậy, nhưng số phận tiếp tục thử thách chị, bom Mỹ giết chết một lúc mười bốn người dân Võ Lâm trong đó có mẹ chồng, mẹ đẻ và hai đứa em nhỏ, chỗ dựa tình cảm của chị cũng đã mất trong lúc bặt tin chồng. Một lần nữa chị đạp lên đau thương gian khổ mà đứng lên, dẫn dắt hợp tác xã và các hội đoàn tiếp tục sản xuất, nắm chắc tay súng phối hợp với đơn vị bộ đội phòng không đánh trả giặc Mỹ, chia lửa. Cảm phục vì tài năng đức hạnh của Mân, một chàng trai trẻ trong làng – Hùng đem lòng yêu Mân, rồi tìm cách ngỏ lời, nhưng đã bị Mân khước từ. Rồi đến lúc Mân và bà con tiễn Hùng và các bạn cùng trang lứa ra trận, tiếp bước cha anh. Mân và những người phụ nữ lại tiếp tục trên trận tuyến của mình…

Am hiểu nông thôn nông nghiệp và nông dân miền Bắc trong thời chống Mỹ cứu nước, nắm bắt được thực tế sinh động nên Hồng Nhu đã vẽ bức tranh nông thôn khá hoàn chỉnh tiêu biểu là Hợp tác xã nông nghiệp Võ Lâm với những hình tượng nhân vật được khắc họa tuyệt đẹp như Mân, Hường, ông Mạn, ông Lãng, cô Ngọc kỹ sư thuỷ lợi… Mân xuất thân là một nữ sinh tốt nghiệp phổ thông trung học (mười tám tuổi, học hết lớp mười, tóc mượt dài phủ mông, da trắng, ngực vun đầy, cô như một bông hoa hàm tiếu (T.34) những giây phút hiếm hoi thư thả một mình, Mân thường mơ mộng và mơ tưởng chồng, có khi tự đánh lừa mình bằng những giấc mơ giữa ban ngày cũng như đêm hôm khuya khoắt… Khi có đơn vị bộ đội phòng không về trú đóng gần nhà, với cương vị lãnh đạo đáng lý ra Mân phải thu xếp công việc đến thăm hỏi và giúp đỡ anh em bộ đội, nhưng Mân cứ nấn ná vì tưởng tượng có chồng mình trong đơn vị bộ đội ấy: “…Đương là đơn vị bộ binh được cử đi học cao xạ pháo và thuyên chuyển về pháo binh cách đây vài bốn tháng. Đơn vị được điều về hoạt động ngay tại tỉnh nhà. Do bí mật quân sự, anh không thể báo cho vợ biết. Đêm hôm qua được lệnh hành quân đến bố trí trận địa ở vùng đồi quê nhà, anh đang bận chỉ huy đơn vị lập trận địa, đào công sự, ngụy trang pháo, chuẩn bị mọi mặt cho việc sẵn sàng chiến đấu, nên dù ở ngay bên cạnh nhà, anh vẫn chưa về với chị được. Vả lại, anh cũng muốn làm cho chị ngạc nhiên một cú cho vui. Chốc nữa đây anh sẽ xuất hiện sau lưng chị, kêu tên chị, làm chị thảng thốt quay mặt lại, rú lên vui mừng và quên cả giữ ý tứ…” (T.164) Hoặc một chỗ khác: “Mân đặt ấm nước chè tươi vừa mới nấu và một chồng bát lên bàn, sửa soạn gọi xóm giềng đến uống nước thì một bàn tay ai đặt nhẹ lên vai chị, chị giật mình quay lại rú lên:
- Anh Đương!
Đương đột ngột hiện ra trong ánh trăng mỏng và nhẹ (…) Mân ôm chầm lấy anh, hai vòng tay siết chặt như sợ anh bay mất (…) Mái tóc còn thơm mùi rơm lúa của chị cứ rúc vào bộ ngực vuông vắn của anh, mừng tủi lẫn lộn (…) Ba ngày đêm ở với chồng trong kỳ Đương nghỉ phép nầy là ba ngày đêm khác hẳn với mười năm qua. Chị bỗng thoắt ngượng ngùng nhận thấy một sự thay đổi mới trong người…” (T.217) Người đọc mừng cho ước mơ được làm mẹ, ước mơ cháy bỏng của Mân có cơ trở thành hiện thực - dẫu đã khá muộn màng (hơn mười năm sau ngày cưới) nhưng… đó cũng chỉ là mơ! Thấu hiểu sâu sắc tấm lòng của người hậu phương đối với người ngoài mặt trận, với ước mơ được làm mẹ như là bản năng của người phụ nữ, Hồng Nhu đã khai thác tâm lý này khá nhuần nhuyễn làm cho người đọc xót xa và thương Mân đến cháy lòng. Như đã nói trên, với sự am hiểu thấu đáo về nông nghiệp nông dân và nông thôn, Hồng Nhu đã có những trang văn miêu tả đến nao lòng: “Nắng non trắng một màu ngà ngà như sáng trăng trải khắp cánh đồng đã lợp kín mạ mới cắm xuống. Khoảng nửa buổi người đi cấy giữa đồng đã lấm tấm mồ hôi. Trời tốt quá, cơ này đất khoai đất ruộng se được, đặt chiếc cuốc bàn vào thấy ngọt tay mà rồi đắp đập thuỷ lợi cũng đỡ chẳng mấy chốc mà đạt đến cao trình cần thiết (T.109) Hoặc: “Một buổi sớm, Mân vác cuốc thăm đồng. Mới đó mà nay lúa đã tốt ngợp, thửa nào thửa nấy cứ ngồn ngộn, bông dài to như đuôi trâu mới vực” (T.184).

Vào dịp kỷ niệm bốn mươi năm chiến thắng Truông Bồn – Đô Lương - Nghệ An (10.1968 – 10.2008) báo chí nhắc lại việc phá bom từ trường của đội cảm tử quân Truông Bồn thuở ấy, xem ra cách phá có hơi khác với cách của Hồng Nhu viết trong “Đồi trở gió”. Các kỹ thuật viên phá bom từ trường của Hồng Nhu hầu hết là xã viên của Hợp tác xã nông nghiệp Võ Lâm “…Hợp tác xã ghi công điểm cho mỗi chiến sĩ phá bom là một công rưỡi cao nhất, ngoài ra còn xuất quỹ đài thọ ngày hai bữa cơm no nê” (T.199) cách phá bom rất thô sơ, thủ công, và mức độ nguy hiểm cao hơn nhiều với các cảm tử quân ở Truông Bồn: “Dùng một sợi dây dài có buộc những thanh sắt, hai người cầm hai đầu đứng dưới hầm cưa qua cưa lại vào quả bom như cưa gỗ. Sắt cọ vào quả bom gây nên phản ứng từ và bom nổ” (T.189) Mân nhoẻn cười nhẹ nhàng quàng cuộn dây lên vai, vừa lom khom bước vừa sải ngang qua quả bom nhìn cái chong chóng trắng hếu của nó Mân nổi gai khắp người (…) Hai múi dây đầu vắt qua một cái nạng nhỏ như súng cao su. Đứng trong hầm Hùng cầm một múi, Đá một múi, chân giạng ra, kéo đi kéo lại cọ xát trên chong chóng quả bom như hai chàng thợ cưa. Mỏi tay, Ngần, Luyến vào thay… Đến quả thứ ba Ngần, Luyến đang kéo nửa chừng thì tắc, dây buộc các thanh kim loại bị mắc vào chỗ nào đó, cưa không chạy. Ông Lãng nhíu trán: phải gỡ ra. Đến tận nơi mà gỡ thôi! Ai đi nào? (…) Ai cũng muốn mình được xông vào nơi nguy hiểm nhất (…) Mân chậm rãi: …chúng ta đều là đảng viên, đoàn viên cả, nhưng tôi có kinh nghiệm hơn các đồng chí, tôi đã trực tiếp đi tập huấn trên Huyện (…) thế là cả đội đuối lý. Ông Lãng dặn: hồi nãy tôi thấy bom loé lửa mấy giây sau mới nổ (…) đồng chí nhớ tốc lực chạy mươi bước rồi nằm xuống nhé! Mân gật đầu, chị thấy bình tĩnh lạ lùng, chạy về phía quả bom…” (T.200-203).

Vấn đề đặt ra trong “Đồi trở gió” là những khó khăn gay gắt tận cùng của cuộc sống đặt ra trước con người, bắt con người phải chọn lựa, là phải chiến đấu để tồn tại, cũng là những thử thách nghiệt ngã của chiến tranh đối với người phụ nữ Việt Nam: trong gian khổ ác liệt, sắc đẹp và những đức tính dịu dàng, thuỷ chung, dũng cảm… một lần nữa được tôn vinh. Cùng với Võ Lâm, những tên đất tên người trong “Đồi trở gió” được Hồng Nhu trần thiết như một thứ trang sức cho tác phẩm đậm đặc chất nông thôn Việt, những đồi Trạo Rùng, chợ Rạng, chợ Rộ, Rú Quéo…, những ông Đá, ông Bờ, bà Thờng, Tuần Chư… Hồng Nhu đôi lúc không làm chủ được ngòi bút, cứ miên man sa đà với lịch sử những cuộc đất, lý lịch của các nhân vật phụ, làm mất cân đối bố cục tác phẩm. Tuy vậy, người đọc không dễ dàng bỏ qua những trường đoạn mất cân đối ấy, vì nó thực sự lôi cuốn bởi cái đằm thắm, nhuần nhị, duyên dáng… như bao lâu nay người ta đã từng bắt gặp trong thơ, trong truyện ngắn của anh.
H.K.L

(nguồn: TCSH số 238 - 12 - 2008)

 



-----------------
(*) Tiểu thuyết Hồng Nhu NXB QĐND 2008.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.