LÊ HƯNG TIẾN
Tự thức
(Quý tặng nhà thơ Đinh Thị Như Thúy)
Minh họa: Nhím
Tôi để rơi vào khoảnh rỗng hờ trên cây thập tự những tháng ngày chưa tìm được ngã thể mình có chăng hay chớ một mật ngữ riêng ta. Sự vô hình làm tôi lận vào ai những cây chữ thập đã bị đánh tráo mình từ khi ngọn sóng thơ thổi bay khát vọng vào lông tơ sương phù phiếm. Ai đã một lần mặc nhiên vào sớm thần hồn thì thần hồn sớm muộn cũng sẽ lân la trong cái vốn sẵn mình tự thức. Tự thức đôi lúc thấy mình còn tư lự những giá trị ảo để mà hư hao thêm phần bí mật vốn đã có trong nó những cái vô nghĩa tồn tại. Ai cũng gặp phải như thế từ khi tư duy không của riêng nào còn ẩn náu nguy cơ sự tồn tại trở lại đối với thời cơ của người sáng tạo đã biết tự thức mình với môi trường không cần thiết. Chao ơi, biết khi nào sự vô nghĩa mọc đầy rễ trong phận người để thấy mình vẫn còn có nghĩa đúng ơ hờ mây qua. Phút chốc sự vô nghĩa reo ca bài cô đơn mọc ra nhiều cánh sóng, và ta có thể tự thức mỗi khi. Tự thức phải có duyên từ nó. Không ai được cất giấu nó trừ khi diễn từ đó do sự chuyển động của người sáng tạo nó mà nên. Khó lắm thay!
Tự thức do tôi mang lại, và tôi đã cất công tạo ra nó, điều đó không dễ đâu. Sự cất công là tôi hiện thực, nên duyên đã đến với tôi có lẽ tự khắc thôi. Bởi vậy, tự thức đó đã cho tôi gặp được nhiều người cũng do tự thức họ cất công thành hình. Thế thì tự thức tự bình phương hay tự lập phương mình là duyên của tổng số chung vô hình hợp thành. Sảng khoái nhỉ!
Những lần tự thức với nhà thơ nữ quyền luận Đinh Thị Như Thúy trên khắp hành trình sáng tạo khi phố đã chưa lên đèn. Và nay duyên mình lại ngẫm nhiên tự thức với nữ sĩ ở phố phó xẩm mặt Đà Nẵng, bỗng dưng sự chuyển động lại thêm một lần nữa ngã thể tự thức...
Cây chữ thập nở đóa
Bận vào chiếc áo trắng suy tư, và ta có lẽ tinh khôi lại mặt trời trên đồi vó ngựa của thuở 15 hay 16 gì đó mà trong mỗi ai nào đem tuổi mình rao bán khắp cánh đồng xuân thì đã chưa. Nắng lên cho hồng đôi má liếng la liếng lả đồng tiền mất giá ở thị trường thời nay đã xưa. Có gì đâu để vội vàng lên bàng bạc tóc mái làm những sợi lông tơ sương xuống muộn vào day ngày với đêm một lỗ thủng chọc trời không số má. Nỗi buồn giai điệu đi từng làn làn môi mỏng theo đường sóng lưng rồi ngang nhiên một vết gợn vào tim tím tím tim cả nốt trầm bổng hư phù của mây ngang. Đỏ lại màu sầm sậm hơn. Trong đó đặc quánh một góc nhìn không nghiêng cành xiên lá để loang loáng mặt nước trầy xước mắt chiều hoắm. Ai rồi nuối tiếc xa xôi. Thẳm xanh chỉ một lần thấy xưa cho người lọ mọ tìm họ và tên ký vào chiếc áo trắng còn trinh con gái. Miền thung không lũng vào nhau cho đời nở đóa. Đóa còn khuyết trắng mùa trăng không hương. Ta vội trồng người lên từng cây số chữ thập để mắt hút cái đã qua mùa mùa trổ đòng đòng những đường chân không mang dấu. Rồi ta cũng đã đi qua. Đi quá có thể. Ta là trắng. Trắng của chiếc áo em mặc rỗng trăng...
Vũ điệu Rondo
Những con chữ đời người lại bắt đầu một hành trình mới vào đêm. Vì chỉ có đêm là bạn đồng hành suốt đời của ta, cho ta suy tư, cho ta những con chữ nhọc nhằn, hằn hộc. Đêm sẽ chờ ta và nỗi nhớ cũng chờ ta. Ta sẽ mang tất cả ngươi vào khu bảo tồn đồng tiền tiếng nói, để các ngươi sẽ cùng triển lãm trước số phận của những con cón con cỏn con còn con cọn con con trong ý nghĩ của ta. Ta sẽ sống với các ngươi bằng cả tâm hồn và trí tuệ đấy...
Một sáng thật thanh tịnh, khí trời dường như do thần cảm phả vào phù hư, nên con người thấy vũ trụ gần hơn ở những con đường có nhiều ngả rẽ mới trong lòng kẽ tay... có thể do đêm đổ nhiều bóng tối vào nghĩ suy nên ban mai tươi rói những con chữ. Chúng đang nhảy múa theo vũ điệu Ron-do mặt trời và mặt người, nhưng không có mặt nạ nào đâu đây nhé...
Một sáng bỗng nhớ ai đó trong sâu thẳm. Sâu thẳm không đáy. Vì đêm đã lấy đáy chưng cất hết ánh trăng và cả hằng hà sa số nhớ nhớ quên quên. Nhìn lại bức ảnh đã xa so với khoảnh khắc hôm nào, lòng rất nhớ mọi người. Nhớ quay quắt. Nhớ những ánh nhìn đăm chiêu, nhớ những lời nói bỏ nhỏ, nhớ những cử chỉ hờ, nhớ những nụ cười duyên, nhớ những khoảnh khắc lấm chấm nhiều hoa thị... nhớ ơi là Nhớ!
Hồn chữ
Nhiều lúc ngẫm nghĩ lại cuộc đời, những đường chỉ tay hình như có nhiều ngả rẽ khác trong vô thức, mà vô thức sẽ phải trải qua hằng đêm tinh lọc để hình thành nhiều cái vô nghĩa tích tụ trong khoảnh rỗng con người làm nên bản thể nó thì phải... Lạ, nhiều lúc mình cũng chẳng hiểu được trong lời nói của mình lại xuất hiện những ngữ nghĩa không định hình được chúng. Chúng cứ bay nhảy, múa máy trước lòng tị hiềm của mình. Mình đã nói rằng, khi nào đó ta rơi vào khủng hoảng cô đơn, thì mi có thể cho ta những con chữ có nhiều nghĩa lạ hóa, để ta có thể xua đi cuộc người vào lúc khác. Nhưng chúng vẫn lì lợm, bịp bợm trong suy tư hoang hóa của mình, để làm nên những cái vô nghĩa trong mỗi bài thơ. Lạ thật, những bài thơ mang mỗi linh hồn con chữ cứ loay hoay và bay bay bay... Biết khi nào những con chữ này đầu thai vào một kiếp khác đúng nghĩa tên của chúng, như thế, mình có thể trước khi yên vị...
Và tôi đã trở thành tội đồ của con chữ
Giấc ngủ chưa đủ làm mặt trăng tròn 16 nên cuộc người cứ hoai hoải những gánh phận đã rằm ưu tư. Cái cũ tôi đã bỏ vào hủ trang điểm khi mỗi ban sương thức dậy chưa hồng. Phải cần chêm chêm tí lửa để chờ vận thời của gió làm tư duy động hướng nơi hong hốc. Ai một cõi nhớ khong khỏng cho mây khói hun hút lam không chiều. Rồi có một ngày chưa nọ, đam mê bị lũ ký ức chôn sống tôi bằng đáy sông hai mặt, và có lẽ lũy xanh là kiếm trong hồn ai một lằn ranh chưa định được cơ phận. Kiếp lầm lậm này cứ lầm lậm khác trong từng khoảnh khắc chuỗi chuỗi hạt hạt vo viên phù hư và cả thần cảm…
Một ngày mới chưa trọn vẹn được ngày mới trên vầng trán hờ của không gian tưởng. Bận rộn đã trà trộn vào mớ hổ lốn trên bàn tròn con chữ. Bày biện giữa ánh sáng, tôi gấp từng con chữ ăn cho đủ ấm cái bụng hờ, nhưng khổ một nỗi là cái bụng lại trương ra nhiều ngữ nghĩa trước số phận đa chiều nên con chữ đánh bóng tôi thành tội đồ. Và tôi đã ngẫm nhiên trở thành tội đồ của con chữ...
(SHSDB23/12-2016)
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.