Đi câu cá cùng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

08:50 16/05/2016

LÊ HUY MẬU

Anh Điềm, bấy giờ còn là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa TW, nhưng đã sắp nghỉ. Anh ra thăm Côn Đảo. Trong đoàn tháp tùng anh ra Côn Đảo của Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu có tôi.

Xe đưa đoàn ra tận máy bay. Không qua cửa hàng không như những khách bình thường. Tôi mang tiếng là đã ở Vũng Tàu lâu nhưng chưa được ra Côn Đảo, Trưởng ban Tuyên Giáo, nhân chuyến tháp tùng anh Điềm, cho tôi đi theo.

Nhớ lại, thời còn Đặc khu, có lần, tôi được Ban Tuyên giáo cử lên Sài Gòn mời nhà thơ Chế Lan Viên về Vũng Tàu nói chuyện. Trong rất nhiều việc ở Ban Tuyên giáo, thỉnh thoảng có những việc khiến tôi thích thú vì có cơ hội được gặp nhiều người tên tuổi đến tỉnh. Ví như, việc được chăm nuôi tướng Trần Độ chẳng hạn. Ví như được gần gũi giáo sư Trần Văn Giàu, nhà thơ Tố Hữu và nhiều người nổi tiếng khác… Ban Tuyên giáo cử tôi đi cùng Bí thư đưa nhà thơ Chế Lan Viên ra thăm Côn Đảo. Mừng ơi là mừng! Mừng vì được lần đầu ra Côn Đảo. Nhưng mừng hơn là được đi cùng nhà thơ Chế Lan Viên. Nhưng lần ấy, trước giờ bay, tôi được thông báo là “không phải” đi nữa.

Anh Điềm bảo, anh chỉ ra thăm Côn Đảo chứ không làm việc gì. Trước lúc về, anh sẽ gặp gỡ lãnh đạo huyện một chút, thế thôi! Tôi sẽ không có lúc nào để gặp riêng anh, nếu như anh cứ ngủ trong biệt thự riêng phía trước. Nhưng, ngay buổi tối đêm đầu tiên, anh đã xuống phòng của tiến sĩ Thức, thư ký riêng của anh, và tôi. Anh bảo, mình ngủ dưới này với các cậu nói chuyện cho vui!

Trông anh Điềm thật hiền. Gương mặt thật phúc hậu. Giọng Huế thật nhẹ nhàng và ấm áp. Sự cởi mở, thân tình của anh, tôi thấy nó chân thành, nó tự nhiên lắm. Chẳng thấy có vẻ gì là anh đang làm “dân vận”. Tuy nhiên, do bản tính tự ti thường trực, núp dưới vỏ bọc là lòng tự trọng của mình, nên tôi luôn giữ khoảng cách trước anh.

Còn nhớ, năm 1985, khi lần đầu ngấp nghé trước cửa Hội Nhà Văn, tôi thấy, tất cả những người ra vào cổng trụ sở ấy, chẳng biết họ là ai, họ có phải là nhà văn hay không, nhưng trông họ mới vinh dự làm sao! Trong mắt tôi khi ấy, tôi toàn thấy những gương mặt lạnh lùng xa lạ. Chỉ anh Điềm, khi gặp gỡ với mấy người viết trẻ trong trụ sở Hội hôm đó, thật ân cần, gần gũi. Giọng anh nhỏ nhẹ. Anh tiếp xúc những người viết trẻ với ánh mắt trìu mến biết bao. Anh xưng hô với những người viết trẻ là “các anh chị”. Bấy giờ, anh Điềm đã quá nổi tiếng với trường ca Mặt đường khát vọng. Trông anh thật nho nhã và khiêm tốn. Tôi mang theo ấn tượng tốt đẹp ban đầu ấy, về anh, mãi cho tới khi gặp lại anh.

Hôm huyện ủy Côn Đảo tổ chức chiêu đãi, tôi ngồi cùng bàn với Thức và các cán bộ của huyện. Anh Điềm đề nghị tôi sang ngồi với anh, ngồi cạnh anh để nói chuyện. Sau này, Bí thư Tỉnh ủy nhắc mãi. Rằng, tôi chuyện trò với Ủy viên Bộ Chính trị như chuyện trò với bạn bè. Quả thật, khi ấy, tôi có cảm giác như anh Điềm có vẻ chán với những câu chuyện tầm phào trong bữa tiệc. Thỉnh thoảng, anh quay sang nói chuyện riêng với tôi, hỏi han tôi chuyện gì đó. Những chi tiết này, vô hình trung, khiến tôi “có giá hơn” trong mắt những vị lãnh đạo tỉnh của mình!

Việc đi câu cá ở Côn Đảo là do anh Điềm đề xuất. Hùng, bấy giờ là Phó Giám đốc cảng Bến Đầm, được giao chuẩn bị cho buổi đi câu. Không phải câu trên bờ mà câu trên thuyền, ngoài biển. Con tàu chở đoàn cán bộ đi câu hôm đó chẳng có tàu nào hộ tống. Ông Ủy viên Bộ Chính trị đi câu cũng chẳng sang trọng hơn những người đi câu khác điều gì. Cũng quần soọc, áo thun. Cũng cần câu, cũng mồi câu như mọi người. Hôm ấy biển êm. Sóng chỉ lắc lư con thuyền. Và nó cũng chỉ biểu hiện được là nó khi làm lắc lư con thuyền. Còn khi nhìn ra biển thì không thấy được nó đâu.

Bây giờ, nhớ lại, thấy tiếc, hình như hồi ấy chưa có di động chụp hình. Tiếc chẳng thấy ai chụp hình về buổi đi câu đó. Giá có tấm hình anh Điềm đi câu cá ở Côn Đảo minh họa cho bài viết thì hay!

Hôm ấy là ngày không may mắn đối với người đi câu. Cả 5, 7 cần câu, câu cả ngày mà chỉ được có mươi con cá. Con lớn nhất chỉ bằng ba ngón tay ghép lại. Anh Điềm câu được một hay hai con gì đó. Con cá đầu tiên cắn câu, anh Điềm giật được là con cá làm vệ sinh. Nó chỉ lớn bằng ngón chân cái là cùng. Loài cá này không ai ăn. Bắt được là ném xuống biển. Còn con sau, tôi không nhớ. Nếu có, thì đấy cũng là một con cá nhỏ.

Cá không cắn câu không phải lỗi của người dẫn đi câu. Nhưng Hùng cứ băn khoăn. Hùng cho tàu đổi vị trí câu mấy lần, nhưng kết quả không khá hơn. Thật ra thì kết quả buổi đi câu không quan trọng. Quan trọng là anh Điềm muốn thư giãn. Muốn được là ngư ông, muốn được lênh đênh trên biển, ngắm trời ngắm biển sau những tháng năm cầm nắm đấm micro mệt mỏi.

Tôi cũng chỉ mới thấy anh Điềm trước micro có một, hai lần gì thôi. Một lần là khi, anh mới lên làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin. Một lần, có lẽ là trên truyền hình. Anh Điềm giọng không vang. Nhưng thông tin của anh thường có độ sâu. Phải chú ý lắm thì mới thấm, mới hiểu hết ý anh. Sau này, đọc thơ anh Điềm khi đã buông hết mọi chức vụ, tôi liên hệ thấy, nhận xét của mình về anh có phần đúng. Thơ anh đầy nỗi niềm. Nhưng lắng sâu. Và hình như chưa bao giờ anh nói hết những điều anh muốn nói. Anh chỉ gợi nhiều hơn là bộc bạch nỗi niềm.

Có một ý, anh Điềm nói lâu rồi, trong hội nghị của ngành Văn hóa, khi anh còn làm Bộ trưởng, tôi còn nhớ. Anh nói về sự bất cập của các giám đốc Sở Văn hóa trong toàn quốc. Lúc bấy giờ, tôi thấy anh Điềm bắt mạch trúng. Thực trạng bất cập phổ biến không chỉ trong ngành Văn hóa. Nhưng Văn hóa, càng về sau này càng tỏ ra bất cập nhiều hơn. Ở nhiều nơi, Văn hóa vẫn được coi như là bộ phận cờ, đèn, kèn, trống trong xã hội. Chưa anh nào, dù ở trình độ nào, giao làm Giám đốc Văn hóa lại ngán ngại. Có lần, trong hội nghị của Bộ Văn hóa, tôi có dự, một vị đại biểu, phát biểu, rằng trong ban giám đốc của mình, không ai có nghiệp vụ chuyên môn về ngành Văn hóa. Có lẽ anh Điềm hiểu mọi chuyện, nhưng công bằng mà nói, anh không thể thay đổi được thực trạng tình hình đó.

Khi anh Điềm ngồi câu cá trên thuyền ở Côn Đảo, anh không hề biết rằng, có người đang lặng lẽ quan sát anh. Khi anh ngồi câu cá, tôi thấy, anh thi sĩ biết bao. Lão thực biết bao. Tôi thầm đọc mấy câu thơ mà tôi thích trong trường ca Mặt đường khát vọng của anh:

“Ơi cánh cò tị nạn khô gầy
Đêm đêm về những hàng cây thành phố
Lao xao tìm chốn ngủ…”



Bấy giờ chiến tranh, rừng núi, nông thôn đều bom đạn, chim bỏ rừng, bỏ làng mạc về thành phố tìm chỗ ngủ. Có mấy câu đơn giản vậy thôi cũng đủ nói lên sự khốc liệt của chiến tranh, nó làm đảo lộn cả quy luật của tự nhiên, và v.v… Tôi đã yêu thơ anh Điềm biết bao, vậy mà khi gặp anh gần như tôi chẳng biết nói gì, cứ lẳng lặng ngồi câu cạnh anh, và nghĩ ngợi vơ vẩn một mình.

Không biết tôi có lầm không? Hình như, tôi đọc đâu đó, nói rằng, anh được sinh ra, hoặc đã có tuổi thơ của mình trên quê hương tôi, ở Thanh Chương Nghệ An. Tiếc là tôi quên không hỏi anh là còn lưu giữ được kỷ niệm, hay ký ức gì về quê hương Thanh Chương của tôi không?

Ngồi trên con tàu nhỏ, bập bềnh ngoài khơi đảo Côn Sơn, tôi nghĩ, như không phải là tôi đang ngồi bên cạnh một ông Ủy viên Bộ Chính trị, tôi đang đi câu cùng nhà thơ tài năng Nguyễn Khoa Điềm, tác giả của trường ca Mặt đường khát vọng nổi tiếng và là tác giả của bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ mà tôi rất ngưỡng mộ.

Thơ anh Điềm trong chống Mỹ đã có giọng điệu khác nhiều so với những nhà thơ cùng thời với anh. Mặt đường khát vọng là trường ca, đặt anh vào vị trí nhà thơ cách mạng không thể không nhắc tới trong bất cứ bộ tuyển nào. Nó quan trọng không chỉ ở tính chất, nội dung, thời điểm ra đời, mà trong nó, có cả sức vóc văn hóa của nó. Chỉ nói riêng về chương Đất nước thôi, đã đặt anh ngang với những Nguyễn Đình Thi, những Đỗ Nhuận, Văn Cao trước đó rồi!

Thơ anh Điềm có sự lắng sâu của cảm xúc. Có sự minh triết. Nhưng sau hết cả, ở anh, là giọng điệu thơ rất riêng. Thơ anh có nội lực logic nội tại, một thứ triết lý bằng ngôn ngữ hình tượng mới, lý trí mà vẫn hấp dẫn, cuốn hút.

Tôi trở lại Côn Đảo vào dịp Hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức lễ cầu siêu cho các vong hồn tử nạn ở Côn Đảo. Tôi có ra chỗ mà anh Điềm trồng cây lưu niệm ở Hàng Dương. Bên cạnh những gốc cây có biển ghi tên những vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, có gốc cây có biển đề tên anh Điềm với đầy đủ chức danh ở thời điểm đó.

Bỗng dưng, tôi nhớ tới anh, nhớ tới buổi đi câu cá cùng anh ở Côn Đảo đã lâu rồi!

Vũng Tàu 28/3/2015
L.H.M
(SHSDB20/04-2016)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.