Để nghệ thuật truyền thống trường tồn

15:28 11/10/2018

Nghệ thuật truyền thống dân tộc như: tuồng, chèo, cải lương, kịch hát dân tộc… đang kêu cứu, vì người xem ngày càng giảm, người theo nghề ngày càng hiếm. Hiện nghệ thuật truyền thống dân tộc đang thiếu hụt trầm trọng lực lượng thay thế trên tất cả các lĩnh vực, như diễn viên, nhạc công, biên kịch, đạo diễn…

Sân khấu truyền thống trăn trở cách tồn tại.

Nhưng đây cũng là hiện trạng chung của thế giới. Nhạc cổ điển, ôpêra, balê… từng là niềm tự hào của châu Âu, nay cũng rất kén người xem. Rồi kinh kịch, kịch Nô… của Trung Quốc, Nhật Bản cũng không còn hấp dẫn khán giả. 

Nói về nguyên nhân, có ý kiến đổ lỗi cho sự nở rộ một cách hấp dẫn của các loại hình nghệ thuật giải trí mới. Người xem hiện nay có điều kiện, có phương tiện để lựa chọn cho mình loại hình nghệ thuật mà mình ưa thích.

Điều này đúng nhưng chưa đủ, mà điều quan trọng là thị hiếu thẩm mỹ của khán giả ngày nay đã đa dạng hơn, phong phú hơn và khó tính hơn. Nhưng điều cốt tử vẫn là: Nghệ thuật truyền thống tuy quý giá, nhưng ở một mức độ nào đó đã không còn phù hợp, không đáp ứng nổi nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật của khán giả hôm nay. 

Nói như vậy để chúng ta không lo lắng thái quá, mà cần bình tĩnh tìm biện pháp tháo gỡ - cả trước mắt và lâu dài, để nghệ thuật truyền thống mãi mãi vẫn là những viên ngọc quý, trường tồn cùng dân tộc.

Trước hết cần lưu giữ và bảo tồn có trọng điểm. Chỉ khôi phục và dựng lại những vở diễn hay nhất, mẫu mực nhất của tuồng, chèo, cải lương, kịch hát dân tộc. Những món ngon của ông cha, có thể không hoàn toàn hợp khẩu vị khán giả hôm nay, nhưng nó vẫn là điều mà người ta muốn tìm hiểu, muốn khám phá, muốn cảm nhận – ít nhất là một lần.

Hạn chế tối đa việc “lấy xưa phục vụ nay” theo kiểu cốt truyện hiện đại, nhân vật hiện đại… được lắp ghép một cách cơ học với các làn điệu tuồng, chèo, cải lương…

Nói như thế không có nghĩa là nghệ thuật dân tộc không được dàn dựng những vở có nội dung hiện đại, mà chỉ dàn dựng những kịch bản mà cốt truyện, nhân vật… có những tương đồng, tương thích… với những làn điệu, với cách dựng truyện của nghệ thuật truyền thống.

Năm 1962 tôi được xem một vở chèo hiện đại của Đoàn Nghệ thuật quân đội “Tấm ảnh bên đầm sen”. Thời gian trôi lâu quá rồi tôi không nhớ tác giả của vở chèo là ai, chỉ biết tối hôm ấy sân vận động của huyện đông nghịt người (bởi mấy khi được xem nghệ thuật chuyên nghiệp ở thời kỳ ấy).

Tôi cũng không nhớ thật rành rẽ cốt truyện, chỉ biết là câu chuyện xảy ra trong kháng chiến chống Pháp. Khán giả trầm trồ, bởi với công nghệ hiện đại, người ta được chứng kiến Mặt trăng (trên sân khấu) từ từ nhô lên tròn vành vạnh. Nhưng khán giả cũng la ó khi nữ nhân vật chính đang bị giặc Pháp đuổi bắt, mà cứ đứng hát mãi làn điệu này sang làn điệu khác. Gần 60 năm rồi, mà tôi vẫn nhớ rất nhiều khán giả đã la lên: Trốn đi, hát mãi, nó bắt bây giờ! Nói thế để thấy, nghệ thuật chèo đầu những năm 60 của thế kỷ trước, rất được nhân dân ưa chuộng, nhưng người ta đã không chịu được khi dàn dựng không phù hợp với bối cảnh, và không khí của cuộc sống mới.

Nhưng điều có tính chất quyết định là Nhà nước phải nuôi những đơn vị nghệ thuật truyền thống như những bảo tàng nghệ thuật sống. Hiện nay Nhà nước vẫn “nuôi” nhưng chỉ với danh nghĩa tài trợ, cho nên những đơn vị nghệ thuật nay phần nhiều sống vất vưởng và do vậy không hấp dẫn lớp trẻ đầu quân. Nhìn sang thế giới, các đơn vị nghệ thuật, các chương trình biểu diễn nhạc cổ điển, ba lê, opêra… đều được các nước tài trợ, vì không địch nổi với trào lưu âm nhạc mới, như rock, pop, ráp…

Rồi kịch Nô, kinh kịch… cũng dược Nhật Bản, Trung Quốc “nuôi” để phục vụ chủ yếu cho khách nước ngoài, những người có nhu cầu nghiên cứu và thưởng thức. Trở về với các đơn vị nghệ thuật truyền thống trong nước, Nhà nước “nuôi” nhưng phải có chọn lọc. Tức là chỉ những đơn vị nghệ thuật thực sự có tính chuyên nghiệp, có trình độ nghệ thuật cao mới được tài trợ.

Vẫn phải có mục tiêu, yêu cầu cụ thể… nhưng phải tạo điều kiện cho các nghệ sĩ của các đơn vị nghệ thuật này sống được đoàng hoàng bằng nghề. Tránh tình trạng hiện đang phổ biến ở không ít nơi là đơn vị nào cũng được tài trợ, nhưng không đơn vị nào sống được bằng nghề.

Cùng với đó phải phát triển phong trào tìm hiểu nghệ thuật truyền thống, nuôi dưỡng phong trào sân khấu học đường (có thời gian phát triển rất tốt). Bởi nghệ thuật sân khấu truyền thống (đặc biệt là sân khấu tuồng) đòi hỏi người xem phải có trình độ, có hiểu biết nhất định mới thưởng thức được, mới thấm thía cái hay của vở diễn, ở không ít trường hợp, khán giả không thấy hay, không thích xem bởi họ không hiểu hết, không được trang bị những kiến thức tối thiểu.

Sự khúc mắc của nghệ thuật truyền thống khi đến với khán giả hiện nay là ở đó và sự hấp dẫn với khán giả hôm nay cũng là ở đó. Người xưa đã nói “nghề chơi cũng lắm công phu”, chúng tôi nói thêm, nghề thưởng thức cũng phải công phu. Để chuẩn bị cho một thế hệ nghệ sĩ mới, thế hệ khán giả mới, thiết nghĩ nghệ thuật truyền thống cần phải được dạy và học bài bản trong nhà trường phổ thông. Điều này chúng ta đang rất thiếu và yếu.    

Theo Trần Bảo Hưng - ĐĐK

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trong tháng Năm này, cả nước tiến hành cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016.

  • Dư luận đang lo lắng về việc rớt giá thê thảm của khối C. Khối C đã thật sự bị sĩ tử thẳng thừng từ chối, điều đó cho thấy rằng xã hội đang quay lưng… đằng sau đó có những hệ lụy gì?

  • Theo định hướng phát triển hiện nay, Huế sẽ là đô thị trung tâm, đô thị hạt nhân giữ vai trò động lực cho Thành phố trực thuộc Trung ương trong tương lai.

  • Thuở xưa, mỗi làng có một hương ước, nhiều làng có hương ước thành văn nhưng cũng có làng có hương ước bất thành văn.

  • Khi nhắc đến xứ sở Phù Tang, điều đầu tiên thế giới nghĩ đến là một Nhật Bản thần kỳ, giàu mạnh về kinh tế và điều thứ hai chắc chắn sẽ là sự đối mặt thường xuyên với thảm họa thiên tai.

  • “Có động đất ở Nhật Bản!” Tôi đang loay hoay xếp lại chồng sách vở ngổn ngang trên bàn thì nghe chồng tôi, giáo sư Michimi Munarushi người Nhật mới về Việt Nam 3 hôm trước báo.

  • Không có một vùng đất thứ hai nào trên dải đất hình chữ S của Việt Nam có vị trí hết sức đặc biệt như Huế. Nơi đây, từ 1306, bước chân Huyền Trân xuống thuyền mở đầu cho kỷ nguyên mở nước về Nam, Thuận Hóa thành nơi biên trấn.

  • I. Đặt vấn đề 1.1. Năm 1945, sau khi nhà Nguyễn cáo chung, một số giá trị văn hóa phi vật thể của Huế không còn giữ được môi trường diễn xướng nguyên thủy, nhưng những gì nó vốn có vẫn là minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa của dân tộc Việt Nam.

  • Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong vài năm tới đã trở thành quyết tâm chính trị của cán bộ đảng viên và nhân dân Thừa Thiên Huế.

  • Thăng Long - Hà Nội, thủ đô, trái tim của cả nước, qua ngàn năm phát triển, đã trở thành biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam, là niềm tự hào của cả dân tộc.

  • Sau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở quy mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.

  • Thừa Thiên Huế - vùng đất chiến lược nối giữa hai miền Bắc - Nam từng là “phên dậu thứ tư về phương Nam” của Đại Việt, nơi “đô hội lớn của một phương”; từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong, kinh đô của đất nước dưới thời Quang Trung - Nguyễn Huệ và triều Nguyễn (1802 - 1945); là miền đất địa linh nhân kiệt gắn liền với những tên tuổi lớn trong hành trình lịch sử của dân tộc, của ngàn năm Thăng Long...

  • Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương trong vài năm tới theo tinh thần kết luận số 48 của Bộ Chính trị đã mở ra một mốc mới mang tính lịch sử. Với kết luận này, đặt ra nhiệm vụ cho Huế phải trở thành trung tâm của khu vực miền Trung và là một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hóa, du lịch, khoa học công nghệ, y tế chuyên sâu và giáo dục đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực.

  • Ôn cố để tri tân, Festival Huế 2010 là lần tổ chức thứ VI. Qua 6 lần tổ chức, nhìn lại những ngày liên hoan văn hóa Việt Pháp (1992) do thành phố Huế phối hợp với Codev tổ chức, anh chị em văn nghệ sĩ Huế lúc bấy giờ phấn khích lắm vì đây là cơ hội tiếp xúc với thế giới dù chỉ mới có một nước Pháp. Họ thấy cần có trách nhiệm phải tham mưu để xây dựng chương trình cũng như chủ động tham gia hoạt động trong lĩnh vực của mình.

  • Như thường lệ, hàng năm Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế tiến hành xét tặng thưởng cho các tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật xuất sắc.

  • Chúng ta đã đi hết gần chặng đường 10 năm đầu của thiên niên kỷ mới. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại mà sự phát triển song hành giữa cơ hội và thách thức đan xen.

  • (Thừa Thiên Huế trên tiến trình xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương)

  • Những năm cuối cùng của thế kỷ XX, cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới diễn ra sôi động trên đất nước Việt Nam, sức sống của vùng văn hoá Huế sau những năm dài tưởng chừng đã ngủ yên chợt bừng dậy và lấp lánh tỏa sáng.

  • Thơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.