Đầu xuân đi tìm ông Di Lặc

16:30 16/09/2008
BẢO NHÂNỞ nước ta, Huế được xem là kinh đô của Phật giáo, không phải bởi vì ở đây có nhiều chùa tháp, đông đảo tín đồ theo Phật hay từng có một thời là cái rốn của Phật giáo Việt , biệt xuất nhiều bậc cao tăng đương đại. Theo chúng tôi, nói như nhà viết kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi vì tính cách Huế, không phải Nho, mà chính là Thiền.

Đối với tín đồ Phật giáo, đón Tết mừng xuân gắn liền với ý niệm về một vị Bồ Tát có tên Di Lặc. Di Lặc là hiện thân của mùa xuân, tâm xuân miên viễn, của hạnh phúc viên mãn mà ai ai cũng luôn ý hướng đến.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Xuân của đất trời tự nhiên có tháng có năm nên có khứ có lai, đắp đổi vô thường tuần hoàn vần vũ: xuân qua hè đến, đông hết xuân về. Xuân của cõi lòng thì không như thế. “Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm. Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu. Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều. Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng…” (Xuân Diệu – Xuân không mùa). Có hạnh phúc thì có mùa xuân. Hạnh phúc thật sự của con người cũng không phải từ bên ngoài đến, mà từ sự buông xả ở ngay nội tâm. Nụ cười hồn nhiên rạng rỡ của ông Di Lặc là biểu hiện của hạnh phúc tràn đầy, của tâm xuân bất diệt ấy.
Di Lặc Bồ Tát - một vị Phật tương lai.

Bồ Tát Di Lặc là nhân vật lịch sử, nhưng cũng mang đầy tính huyền thoại. Lúc Phật Thích Ca còn tại thế, vị Bồ Tát này xuất thân trong một gia đình dòng dõi Bà la môn ở nam Ấn Độ. Di Lặc (Maitreya) là họ, Trung Hoa dịch nghĩa: Từ thị. Tên của Bồ Tát là A Dật Đa (Ajita), Trung Hoa dịch: Vô năng thắng. Sở dĩ mang họ Từ là vì có thuyết cho rằng khi mang thai, mẹ của Bồ Tát khởi lòng từ bi, phát nguyện ăn chay, bố thí, không sát sanh. Di Lặc từng gặp Phật Thích Ca, xuất gia thọ giới Bồ Tát, tu hạnh từ bi hỉ xả, ít người hơn được, thế nên gọi là Vô Năng Thắng. Ông đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sàkyamuni) thọ kí sẽ làm Phật ở đời vị lai trong cõi Ta Bà (Sahà) này.
Theo đó Di Lặc sẽ là vị Phật thứ năm(1) và cuối cùng xuất hiện trên trái đất này, hành trạng có nhiều nét giống Đức Phật Thích Ca trong lịch sử. Hiện nay, Bồ Tát đang thuyết pháp giáo hóa ở nội điện của cung trời Đâu Suất (Tushita) - tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục.
Trong truyền thống đại thừa, Di Lặc cùng với Văn Thù Sư Lợi, Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Vô Tận Ý, Bảo Đàn Hoa, Dược Vương, Dượng Thượng là tám vị Bồ Tát - đại đệ tử của Đức Phật. Bồ Tát Di Lặc thường xuất hiện trong các kinh điển nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa như Diệu Pháp Liên Hoa, Duy Ma Cật, Hoa Nghiêm, Viên Giác, v.v… Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, ở phẩm Tựa Thứ nhất có đề cập đến tiền thân của Di Lặc qua lời kể lại của Văn Thù Sư Lợi về Cầu Danh và Diệu Quang Bồ Tát. Diệu Quang là tiền thân của Văn Thù Sư Lợi còn Cầu Danh chính là Di Lặc Bồ Tát. Song ở đây câu chuyện mang nhiều ý nghĩa biểu trưng. Di Lặc là tượng trưng cho Thức(2) - vốn điên đảo mê lầm còn nhiều mắc kẹt giới hạn, còn Văn Thù Sư Lợi ẩn dụ cho trí tuệ viên minh. Thế nên, khi có điềm lành hi hữu, thức không thể suy lường hết được, phải nương vào trí, nên Di Lặc phải thay mặt đại chúng hỏi Văn Thù Sư Lợi. Đồng thời cũng vì thức vốn “quen mất nết” dong ruổi theo danh tướng trần cảnh như thế mà Cầu Danh học đâu quên đó, trần đọa lao đày, nhiêu khê lắm nỗi. Nếu có sự hồi quang phản tỉnh thì thức kia mới chuyển thành trí. Cho nên không ngẫu nhiên mà Cầu Danh phải nhờ Diệu Quang Bồ Tát hướng dẫn.

Tại Trung Quốc, khi pháp môn Tịnh độ chưa thịnh hành, thì tín ngưỡng Di Lặc là xu hướng khá phổ biến. Đọc Đại Đường Tây vực kí, chúng ta biết trên đường thỉnh kinh, Huyền Trang thường niệm danh hiệu Di Lặc cầu sự yểm trợ cho tai qua nạn khỏi từ vị Bồ Tát này và nguyện lúc lâm chung được thác sanh lên cung trời Đâu Suất để thị phụng Bồ Tát. Ở Tây Tạng, Di Lặc vẫn được thờ cúng rộng rãi. Chúng ta có thể hình dung tôn tượng của Di Lặc trong Phật giáo Tây Tạng qua dự án pho tượng Di Lặc bằng đồng cao nhất thế giới (cao 152m) tại Kushinagar, Uttar Pradesh, bắc Ấn Độ.
Những người theo truyền thống Phật giáo đông độ còn biết đến Di Lặc qua truyền thuyết về ba nhân vật lịch sử độc đáo của Thiền tông: Phong Can, Hàn Sơn, Thập Đắc và đặc biệt hơn, là qua giai thoại về Bố Đại hòa thượng.

Bố Đại hòa thượng (? – 916)
Bố Đại hòa thượng, tự Khế Thử, biệt hiệu Trường Đinh Tử, là vị thiền tăng Trung Hoa sống vời đời Lương (Ngũ Đại: 907 – 960), ở đất Minh Ba, huyện Phụng Hóa, Châu Ninh (nay thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc).
Bên cạnh nhiều thiền thoại siêu ngôn ngữ của một bậc đã đạt đạo như thường thấy ở các ngữ lục, xung quanh hành trạng của vị hòa thượng này có nhiều nét khác người khá nổi bật. Các thư tịch thường miêu tả Sư là người có vóc dáng thấp lùn, mập mạp, bụng phệ da đen, vẻ mặt nhân từ hay mỉm cười vui vẻ, nói năng tự tại thất thường, ăn ngủ tùy tiện, tính tình hài hước ngược đời, xuất xử lạ lùng mang tư chất cuồng thiền. Đặc biệt, Sư thường dùng một cây gậy quảy trên vai một túi vải lớn, trong có đựng bình bát, theo sau có năm sáu đứa trẻ, dạo khắp thôn quê thị thành, thấy ai có vật gì cũng xin, ai cho gì cũng đều nhận tất. Khi túi đã đầy thì vác đến một gốc cây, quy tụ trẻ con và người nghèo… rồi phân phát hết cho họ. Cứ “sớm vác túi đi tối vác về” như thế, nên thiên hạ hài hước “ban” thêm cho Sư một cái tên Bố Đại hòa thượng (hòa thượng vác túi vải). Nhưng với thần thông và tài tiên tri thấu thị thời tiết sau thì ai cũng phải lạy Sư là Hoan Hỷ Phật. Người nào được Sư khất thực thì hôm ấy mua may bán đắt. Gia đình nào có Sư đến hóa duyên thì năm ấy làm ăn thịnh vượng, trên thuận dưới hòa. Tính hay nằm đất mà mình không lấm bụi nhơ. Ngồi ngoài mưa hay trên tuyết nhưng không hề ướt áo. Khi đang nắng mà bỏ dép đi guốc thì trời sắp mưa. Đêm nào ngủ ngoài đường thì sáng mai ắt trời phải khô và nắng đẹp. Viên tịch rồi, người ta vẫn thấy Sư đang rong chơi ở nơi khác.

Cuốn Song Lâm Phó Đại Sĩ Ngữ Lục Hành Thế ghi rằng: “Đến niên hiệu Trinh Minh năm thứ ba, tháng ba, mồng ba, Sư ngồi trên một tảng đá lớn sau chùa Nhạc Lâm thuyết một bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân giai bất thức

(Ta đây thiệt Di Lặc, hóa ra ngàn vạn thân. Thường đứng trước người đời, người đời chẳng ai biết). Từ đó người ta xem Bố Đại hòa thượng là hóa thân của Bồ tát Di Lặc.
Ông nhịn ăn để mặc – theo cách gọi dân gian
Có thể nói bốn kiểu ảnh vẽ và tượng của Di Lặc như thường thấy ở các chùa đều được gợi cảm hứng từ chân dung của Bố Đại hòa thượng. Thứ nhất, dáng người đứng dang chân, hai tay giơ lên trời, miệng cười to, vẻ mặt rạng rỡ; thứ hai, đứng vác một bao to trên vai; thứ ba, đứng trên một chiếc bao to và thứ tư là kiểu mẫu thường thấy nhất: ngồi cười thoải mái, có năm sáu đứa trẻ vây quanh, đứa chọc mắt, đứa khoáy tai, đứa móc miệng, đứa sờ rốn, v.v. Mỗi kiểu, mỗi dáng đều được tiền nhân tạc theo những ý nghĩa riêng nào đó. Đáng chú ý nhất là kiểu dáng thứ tư. Ở đây sáu đứa bé là tượng trưng cho lục tặc như người Việt ta vẫn thường bảo tam bành lục tặc(3). Di lặc là bậc trí tuệ đã không còn bị phiền não mê hoặc, tự tại chuyển hóa được sáu “nhóc ranh” thành sáu bạn thân để chơi đùa. Thế nên dù chưa thành Phật, ông vẫn hạnh phúc tràn trề. Nhưng dù thể hiện Di Lặc dưới kiểu dáng nào thì mẫu số chung vẫn là những nét độc đáo: người mập đến nỗi không thấy cổ, miệng cười rộng đến cả mép tai, đặc biệt là cách ăn mặc thoải mái luôn trìa cái bụng phệ to tướng cho thiên hạ cười. Nhiều người vẫn bảo rằng cái bụng ấy ngoài ý nghĩa là kho Như Lai tạng vô tận dung chứa tất cả mọi người, mọi hoàn cảnh còn tượng trưng cho hạnh tri túc “thà nghèo mà giữ đạo nhà”. Nụ cười tràn đầy hoan hỷ mà chúng ta vẫn thường gọi nụ cười sung cười sướng thứ 36 ấy là biểu hiện của đời sống nội tâm sung mãn của một người đã buông xả hoàn toàn mọi cố chấp, vướng mắc. Có người miêu tả cái bụng vô tâm và nụ cười hạnh phúc ấy một cách văn vẻ và khéo léo hơn:
Đại đổ năng dung, dung thế gian nan dung chi sự
Từ nhan vi tiếu, tiếu thiên hạ khả tiếu chi nhân

(Cái bụng lớn có thể dung chứa, dung chứa những việc khó dung chứa của thế gian
Nét mặt từ bi chúm chím cười, cười những người đáng cười trong thiên hạ).

Bố Đại hòa thượng chỉ là một trong nhiều hóa thân của Bồ Tát Di Lặc nhưng không hiểu vì sao từ khi Bố Đại hòa thượng xuất hiện, người xưa lại chọn vị thiền tăng “hài hước” này làm nguồn cảm hứng chính để khắc họa chân dung Di Lặc? Phải chăng đây là một sự bổ sung thêm một hạnh tu hoan hỷ, hòa nhã, buông xả bên cạnh hạnh tu nghiêm túc, đoan chánh, mẫu mực. Người Việt , trong thiểu số tính cách dân tộc, có óc hài hước. Cứ nhìn vào kho tàng truyện cười, truyện trạng, thơ văn trào phúng, thơ bút tre và cách nói năng bông đùa hằng ngày thì sẽ thấy. Bởi thế, dẫu không phải là môn đồ của tín ngưỡng Di Lặc, nhưng họ rất thích tượng Di Lặc. Tất nhiên, ở tình huống thắc mắc “ngon ơ” này, họ không “vắng mặt”! Người Việt đã tiên phong giải mã và đưa ra cách gọi in đậm phong cách riêng của mình: Đức Phật Thích Ca lục niên khổ hạnh qua tượng Tuyết Sơn là ông nhịn ăn để mặc, còn Bồ Tát Di Lặc ở những bức tượng to béo, bụng phệ là ông nhịn mặc để ăn(4).

Xung quanh tượng ông “nhịn mặc để ăn” và luôn đem lại sự may mắn này, có người đã “bật mí” nhiều câu chuyện khá thú vị. Trước cửa nhiều ngân hàng của người Hoa thường có tượng ông Di Lặc. Đặc biệt, hầu hết các sòng bạc tại Hoa Kỳ, nơi có đông cư dân gốc Á Châu, trước cửa thường để tượng Di Lặc ngồi. Người ta tin là lấy tay xoa rốn Ông trước khi vào sòng bài sẽ gặp nhiều may mắn. Kinh Phật không hề dạy như vậy, nhưng niềm tin dân gian này đã thành huyền thoại và lây sang cả nhiều người da trắng. Theo một bản tin trên báo O. C. Register hai năm trước, một phụ nữ da trắng Hoa Kỳ trúng số độc đắc đã giải thích, mỗi khi mua vé số tại tiệm tạp hóa quen thuộc ở Huntington Beach, Quận Cam, bà luôn luôn lấy tay xoa bụng tượng Phật Di Lặc trên quầy tiệm này. Không hề gì, Phật Di Lặc không hề kỳ thị tôn giáo.
Vì sao mồng một tháng giêng âm lịch là ngày vía Di Lặc?

Cho đến bây giờ người ta vẫn không biết Di Lặc sanh và viên tịch ngày nào? Nhưng Phật tử không ai không biết ngày Tết Nguyên đán là ngày vía của Di Lặc. Ai đã chọn mồng một tháng giêng âm lịch làm ngày vía Di Lặc?
Có nhiều cách trả lời cho câu hỏi ấy, trong đó tôi thích nhất lời giải thích rằng: Ngày đầu một năm thật quan trọng. Tất cả mọi việc làm, cử chỉ phải thật nhẹ nhàng, thận trọng. Giận ai chi lắm cũng bỏ qua. Gặp nhau niềm nở chúc nhau những điều tốt đẹp. Từng tiếng nói lời ăn phải vui vẻ, hòa nhã. Tập quán đó nói lên lòng ao ước một năm may mắn, an vui, cát tường như ý. Thế nên, ngày mồng một Tết còn là ngày mang ý nghĩa tương lai và một lời chúc chân tình cũng là một lời hứa. Các tín đồ Phật giáo lấy ngày này làm ngày vía Di Lặc - vị Phật tương lai – là để tự hứa hẹn với lòng mình nỗ lực tu hành nhằm xây dựng cõi đời – cõi người hạnh phúc an lạc và rồi mai kia cũng sẽ thành Phật như Ngài.
                                                Huế, những ngày mùa đông bão lụt
                        B.N

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 



--------------
[1] Năm vị Phật thuộc Hiền kiếp: 1. Câu lưu tôn, 2. Cân na hàm mâu ni, 3. Ca diếp, 4. Thích ca mâu ni, 5. Di lặc
2 Phật giáo quan niệm rằng Tâm của con người khi tỉnh táo giác ngộ là Trí, còn khi vọng động mê mờ là Thức. Có tám loại Thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, a lại da thức. Năm thức đầu thuộc về nhận thức của các giác quan. Thức thứ 7 - mạt na thức – gần giống với vô thức theo quan niệm của S. Freud. Tu hành là sự chuyển Thức thành Trí.
3 Tam bành: Bành Sư, Bành Kiển, Bành Chất. Theo quan niệm dân gian, đây là ba vị thần ở trong mỗi người, thường hay xúi giục người ta làm bậy, đến ngày Canh Thân cuối mỗi năm lại còn “mách lẻo” với ông Trời để cho người ta mau chết, các ông khỏi phải ngày đêm canh giữ! Lục tặc: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu cơ quan cảm giác (sáu căn) này khi tiếp xúc với màu sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm, kí ức (sáu trần), thói thường vẫn hay điều khiển con người hành động theo bản năng mê muội để rồi phiền não với thương ghét vui buồn bất an, tự đánh mất sự tỉnh táo, trí truệ của mình. Thế nên chúng được gọi là sáu tên giặc cướp.
4 Xem Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt , Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, tr. 254

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.