GẶP GỠ & ĐỐI THOẠI
(Hòa Thượng Thích Thiện Siêu(*) trả lời phỏng vấn của Người Sông Hương)
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu - Ảnh: Phạm Bá Thịnh
Người Sông Hương: Kính bạch Hòa Thượng, lần đầu tiên Phóng viên TCSH được Hòa Thượng tiếp, nhân dịp này xin Hòa Thượng cho biết cảm tưởng về TCSH trong những năm qua?
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu: Tôi không có dịp đọc thường xuyên Tạp chí Sông Hương, nên không có cảm tưởng chính xác và sâu sắc, nhưng theo sự nhận xét của một số thân hữu không có tính cách toàn diện thì Tạp chí "Sông Hương" cũng như dòng sông Hương trong giai đoạn sau này hầu như tiến triển có vẻ "lững lờ yếu yếu".
Người Sông Hương: Dư luận xã hội đang lo lắng về tình hình mê tín dị đoan đang lan tràn khắp nơi, xin Hòa Thượng cho biết nguyên nhân vì sao mê tí dị đoan lại phát triển như thế?
HT. Thích Thiện Siêu: Có phải thật có tình hình mê tín dị đoan đang lan tràn khắp nơi không? Theo tôi dư luận xã hội đang lo lắng về tình hình mê tín dị đoan đang lan tràn khắp nơi thì ít mà lo lắng về tình hình xa hoa trụy lạc, tham ô nhũng lạm, ức hiếp, mất dân chủ và nạn thất nghiệp gia tăng thì nhiều. Vì những thứ sau này mới tác hại nặng nề cho đất nước, cho con người.
Còn mê tín dị đoan hay không mê tín dị đoan, cần phải phân tích mới khỏi nói hồ đồ. Theo tôi có hai lối tín ngưỡng, một tín ngưỡng của tôn giáo và một tín ngưỡng của dân gian: Tín ngưỡng tôn giáo căn cứ trên nền đạo lý, học thuyết bởi một đấng giáo chủ khởi xướng, có hệ thống từ nội dung đến hình thức, có quy cũ học hỏi, hành trì như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Ấn độ giáo... còn tín ngưỡng dân gian là lối tín ngưỡng thông thường theo trình độ dân trí của mỗi địa phương, nơi này có lối tin này, nơi khác có lối tin khác, không có căn cứ lý trí, chỉ cốt thỏa mãn tình cảm, cầu an, tai qua nạn khỏi hay cầu phúc lợi hiện thời. Trong lối tín ngưỡng dân gian này lắm lúc có thứ làm cho suy nhược tinh thần, tính mạng, tài sản, chẳng hạn như đốt vàng mã, uống tàn nhang, nước thải để chữa bệnh... Như vậy xã hội có lo lắng chăng là lo lắng cho lối tín ngưỡng dân gian mang nhiều hình thức mê tín này, nhưng không phải là trầm trọng lắm. Còn dị đoan là chữ của đạo Nho tự cho mình là chính đạo, còn đạo Dương, đạo Mặc không phải là đạo mà chỉ là một lối tín ngưỡng, học thuyết khác mà thôi. Đạo Nho đã dùng câu "Công hồ dị đoan" có nghĩa là công kích đạo Dương, đạo Mặc, từ đó ta mới quen dùng chữ dị đoan ghép chung với chữ mê tín để chỉ cho lối tín ngưỡng vô căn cứ và khác với điều tín ngưỡng của mình. Sở dĩ có tình trạng mê tín dị đoan, trước hết phải nói là vì tập truyền kém hiểu biết, tiếp đó là tâm hồn bất an vì nội tâm cuồng vọng, vì cuộc sống xã hội bấp bênh, ngang trái, mất lòng tin...
Người Sông Hương: Dư luận cũng lo lắng về tình hình "đạo đức xuống cấp", nhất là giới thanh niên. Theo Hòa Thượng muốn giải quyết vấn đề này, xã hội - đặc biệt là báo chí, cần phải làm những việc gì?
HT. Thích Thiện Siêu: Muốn giải quyết vấn đề này, xã hội - đặc biệt là báo chí nên làm những việc sau đây:
a. Đả phá tinh thần bài bác Tôn giáo, đạo giáo một cách mù quáng và quá khích;
b. Truyền bá đứng đắn các quan điểm vật chất, tinh thần, hiện thực và siêu thực, lối sống lịch sự, văn minh, đạo đức;
c. Khuyến khích, cổ võ lớp tuổi trẻ tránh xa những nơi ăn chơi trụy lạc, trái lại nên đến những nơi giáo dục đạo đức, bất cứ ở đâu: ở đoàn thể, ở học đường, ở Tôn giáo. Nếu thấy một khi lớp tuổi trẻ đến đó có thể thay đổi được thói hư tật xấu, thì không ngần ngại gì mà phải ngăn cản. Mặt khác phải làm hạn chế sự phát triển ồ ạt các loại hàng cà phê, quán nhậu, các điểm chiếu vidéo có ảnh hưởng đến sự sa sút đạo đức của thanh thiếu niên;
d. Gương mẫu đạo đức phải có và có từ tư tưởng đến lời nói và việc làm. Về địa hạt báo chí, người chủ báo, làm báo cho người khác đọc, khi viết về đạo đức, thì người chủ báo, làm báo phải có đạo đức thực, thì báo mới tránh khỏi bệnh nói suông.
Người Sông Hương: "Tu" theo đúng nghĩa từ này là góp phần làm lành mạnh hóa xã hội. Hòa Thượng cho biết cuộc vận động chính của Phật giáo hiện nay để góp phần xây dựng đời sống văn hóa của xã hội.
HT. Thích Thiện Siêu: Phát xuất từ tinh thần từ bi và trí tuệ, Phật giáo chế lập ba môn học là Giới học, Định học và Tuệ học để xây dựng cho con người từ mặt đạo đức, trí tuệ, hùng lực, vô ngã vị tha, từ thấp lên cao thoát ly dần tính hữu ngã cố chấp hẹp hòi để đạt đến tính vô ngã vị tha rộng lớn. Những ai muốn có một cuộc sống ý nghĩa sẽ tìm thấy ở Phật giáo những điều giúp cho họ mở rộng lòng, rộng trí, để biết sống chan hòa với mọi người, mọi vật. Từ lâu Phật giáo luôn luôn phát huy lý tưởng đó thông qua việc phổ biến kinh sách báo chí, hành thiện, diễn giảng giáo lý, tổ chức những buổi tu học không những cho lớp người lớn tuổi mà cả đến lớp tuổi thanh thiếu niên. Đặc biệt để giáo dục tín ngưỡng đạo đức cho lớp tuổi thanh thiếu niên, con cháu trong những gia đình tin Phật, Phật giáo đã quy tụ các cháu lại trong "Gia đình phật tử" để giáo dục cho thích hợp theo tuổi trẻ và đã thu hoạch kết quả rất tốt. Biết bao gia đình đã gửi con em mình đến Gia đình phật tử nhờ sự giáo dục mà mình có được những người con có hiếu đạo, biết yêu người thương vật, kính trên nhường dưới, trung thành với Tổ quốc, tránh cho gia đình cũng như xã hội biết bao điều tai hại. Song đáng tiếc, những việc làm này còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế, nên đã làm giảm đi phần lớn sự đóng góp của Phật giáo vào việc xây dựng thanh thiếu niên lành mạnh, xây dựng xã hội đạo đức lành mạnh.
![]() |
Viếng cảnh chùa - Ảnh: Phạm Bá Thịnh |
Người Sông Hương: Hòa Thượng có nhận xét gì về hiện tượng đồng bào miền Bắc "đi hành hương xứ Huế" ngày càng đông, những người ấy có nguyện vọng gì; và các chùa đã có những sinh hoạt gì để thỏa mãn yêu cầu của những người đi hành hương? Ngành du lịch Huế có thể hợp tác với các chùa để tổ chức cho đồng bào vào Huế hành hương không?
HT. Thích Thiện Siêu: Không những đồng bào miền Bắc mà cả đồng bào miền Nam gần đây đi hành hương tại Huế ngày càng đông, theo tôi nghĩ có nhiều lẽ:
a. Huế ở vào vị trí chính giữa hai miền đất nước đã từng một thời làm trung tâm của lịch sử, chính trị, văn hóa, Phật giáo, thế nhưng đã nhiều năm tháng chiến tranh gặp phải trở ngại nên đồng bào miền Bắc, Nam khó đi hành hương đến Huế được. Ngày nay nước nhà thống nhất, Nam Bắc một nhà đường giao thông thuận lợi, nên đồng bào ước vọng đi đến Huế để tận mắt nhìn thấy một vùng đất quê hương mang nhiều tính đặc thù như vừa nói trên.
b. Huế có nhiều chùa danh tiếng, lại có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích văn hóa của dân tộc, đồng bào Nam Bắc đến thăm Huế để thấy rõ nét xây dựng của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử quan trọng của quá khứ, đồng thời chiêm bái Phật tổ, thăm các vị cao tăng mà họ quen biết, thăm chùa Từ Đàm - nơi phát xuất cuộc đấu tranh Phật giáo chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, thăm các ngôi chùa dù trải qua nhiều biến thiên vẫn giữ được nét cổ kính cũng như vẻ canh tân hòa nhịp với vẻ thiên nhiên của sông núi.
c. Huế là đất bàn đạp để mở rộng biên cương của Tổ quốc. Tôi từng nghe có các đồng bào miền Nam khi đi hành hương đến Huế thổ lộ rằng: "Chúng tôi biết tổ tiên xa xôi của chúng tôi từ miền Trung đi vào Nam lập nghiệp nên chúng tôi ước ao trong đời mình có một lần đến Huế thăm". Họ đã nói với tôi câu đó trong vẻ vui mừng xúc động khi gặp tôi tại chùa Từ Đàm trên đất Huế.
d. Và như một cán bộ ở Bắc đến Huế công tác đã trên 10 năm, hôm nọ dẫn thân hữu đến Từ Đàm thăm, trong lúc nói chuyện, vị cán bộ ấy giới thiệu với bạn mình rằng "Người Huế rất lịch sự, ăn nói dịu dàng". Lại một lần khác, tôi nhờ một phật tử Huế dẫn mấy người khách từ xa đến Huế, đi chợ Đông Ba. Khi khách hỏi mua khăn, chủ quán lấy khăn xuống cho họ xem, vì thấy khăn mỏng, không ai mua. Chủ quán vui vẻ treo khăn trở lại không nói gì. Mấy người khách đã nhận xét: "Chị bán khăn tử tế quá. Khi chúng tôi không mua mà trả lại, lòng rất hồi hộp, vì nghĩ thế nào chị ta cũng nói đôi câu nặng nhẹ hoặc vài tiếng mắng như ở xứ chúng tôi, nhưng chị bán khăn này lại tỏ vẻ tự nhiên vui vẻ...".
Đó phải chăng cũng là những biểu hiện của nếp sống văn minh, văn hóa mà người Huế đã có được. Vậy nguyên do từ đâu người Huế có được cách xử thế đó, thiết tưởng Sông Hương nên tìm hiểu và phát huy rộng rãi.
Vì lẽ ấy, nên khi có đoàn hành hương nào đến chùa xin tá túc, chúng tôi đều hoan hỉ chấp nhận, dù chùa rất thiếu tiện nghi cho một số đông người ăn ở. Chúng tôi hướng dẫn họ lễ Phật, kể sơ lai lịch và giảng cho họ ít điều Phật pháp vì họ không có rộng thì giờ để sinh hoạt nhiều. Tôi chưa nghĩ đến việc hợp tác với ngành du lịch để tổ chức cho đồng bào đến Huế hành hương, nhưng tôi mong rằng khi các đồng bào đến Huế hành hương luôn gặp được sự đối xử dễ dàng lịch sự của mọi người, mọi giới để tạo niềm thông cảm giữa Huế và các bạn phương xa.
Người Sông Hương: Tạp chí Sông Hương của Huế - Thành phố cố đô và cũng là trung tâm Phật giáo lớn ở Việt nam, theo Hòa Thượng, Sông Hương nên có những nội dung gì để thỏa mãn phần nào yêu cầu của bạn đọc trong đó có nhiều người theo đạo Phật, trong thời gian sắp đến?
HT. Thích Thiện Siêu: Không những Huế mà hầu hết các thành phố, các tỉnh trong cả nước, số người theo đạo Phật cũng không ít. Còn muốn nói Huế là một "Trung tâm Phật giáo lớn ở Việt Nam" cũng có thể nói như thế được. Nhu cầu muốn thỏa mãn về đạo Phật của nhân dân Huế hiện tại quá lớn, e Sông Hương do nội dung hạn chế của nó khó lòng làm thỏa mãn yêu cầu của bạn đọc nói chung và bạn đọc Phật tử nói riêng. Nếu thỉnh thoảng đăng một vài bài liên hệ tới Phật giáo mà không được thẩm định cẩn thận hoặc có lúc thiên lệch thì chỉ gây nên tai hại, làm mất tin tưởng vào thái độ vô tư, chín chắn của một cơ quan ngôn luận có trách nhiệm nói lên những hiểu biết đứng đắn và phản ánh trung thực sự hiểu biết và nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Ví dụ cụ thể: Tôi còn nhớ một số Sông Hương có đăng truyện với cái đầu đề rất Phật giáo là: "Niết Bàn bốc cháy". Độc giả đọc bài đó nhiều người thấy bực mình và đã có người muốn góp ý, gởi bài nhận định phê bình cho rộng đường dư luận, thì Sông Hương không đăng. Vì sao? do thái độ thiên lệch hay do không sáng vấn đề. Nếu quả là Sông Hương có thái độ thiên lệch thì khó gây nổi lòng tin của đa số bạn đọc đối với nó, khi muốn cho nó là một tạp chí vì lợi ích của toàn dân. Đó là tôi chưa đề cập đến việc truyện "Niết Bàn bốc cháy" đã dựng thành phim và trước khi đem chiếu rộng rãi có chiếu thử tại trụ sở công ty phát hành phim và vidéo trung ương 2 tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 3-2-90 cho các đơn vị đại diện chính quyền thành phố và đại diện Ban văn hóa Giáo hội Phật giáo xem thử. Tại đây đều có ý kiến của các vị đại diện nhắc nhở, đề nghị phải thận trọng xét lại kiến thức về Phật giáo thiếu nghiêm túc của cốt truyện, thế nhưng sau đó cuốn phim vẫn được chiếu nơi này nơi khác. Như vậy chỉ gây sự ngộ nhận về Phật giáo nơi những người chưa biết hoặc chỉ biết mù mờ về đạo Phật và rất dễ làm người dân - nhất là Phật tử nghi ngờ tinh thần trách nhiệm của các cơ quan hữu quan.
Người Sông Hương: Mong rằng những ý kiến chân tình, thẳng thắn của Hòa Thượng sẽ được tác giả "Niết bàn bốc cháy" cũng như những nhà văn nhà báo nghiên cứu tiếp nhận để những bài viết liên quan đến Phật giáo tránh được những sai sót đáng tiếc. Xin cám ơn Hòa Thượng.
N.S.H thực hiện
(TCSH47/05-1991)
-------------
(*) Phó chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo VN kiêm trưởng ban giáo dục tăng ni toàn quốc, đại biểu Quốc hội khóa VIII.
HOÀNG NGỌC CƯƠNG
LGT: Trong quá trình tìm hiểu về sự nghiệp trước tác của Thái sư - Tuy Thịnh Quận công Trương Đăng Quế (1793 - 1865)(1), chúng tôi đã phát hiện ra bài tựa Ninh Tĩnh thi tập tự [寧靜詩集序: Bài tựa Tập thơ Ninh Tĩnh]; được in trong sách Trương Quảng Khê công văn tập [張廣溪公文集: Tap văn của ông Trương Quảng Khê], từ tờ 29a - 30a, tập sách hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, dưới ký hiệu R.315.
TÔN THẤT BÌNH
Kim Long (còn được gọi là Kim Luông) vốn là đất các chúa Nguyễn chọn nơi lập phủ từ năm 1636 đến 1687. Năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Trăn mới dời phủ về Phú Xuân, cách Kim Long chỉ 3 cây số, dọc theo bờ Sông Hương.
CAO THỊ THƠM QUANG
Kinh thành Huế là tòa thành ở Cố đô Huế, nơi đóng đô của vương triều Nguyễn trong suốt 140 năm từ 1805 đến 1945. Hiện nay Kinh thành Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào ngày 29 tháng 3 năm 1993.
TRẦN VĂN DŨNG
Vừa qua, sau khi tấm hình chụp về Ngọ Môn không có 8 bộ mái lợp ngói thanh lưu ly ở lầu Ngũ Phụng xuất hiện trên các trạng mạng xã hội đã lôi cuốn một lượng lớn độc giả quan tâm tìm hiểu, đã có nhiều ý kiến bình luận đưa ra khác nhau.
TRẦN VĂN DŨNG
Nhà vườn truyền thống là di sản đặc trưng tạo nên bản sắc văn hóa Huế, ảnh hưởng lớn đến việc hình thành tính cách, tâm hồn của con người xứ Huế.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Triều Sơn, một tên làng đã vào dạ người Huế bao đời nay, qua câu hò ru em vời vợi. Nhiều người Huế nghĩ rằng làng Triều Sơn chuyên buôn bán, với cụm từ “Triều Sơn bán nón” có trong bài hò ru em phổ biến.
THANH HOA - LÊ HUỆ
Chợ Đông Ba có vị trí đắc địa khi nằm ở trung tâm thành phố Huế, dọc bờ sông Hương, bên đường Trần Hưng Đạo, cách cầu Trường Tiền khoảng 100m về phía Bắc. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân xứ Huế mà còn là nơi để du khách tìm hiểu văn hóa vùng đất Cố đô.
VÕ QUANG YẾN
Tạp chí Sông Hương đã có nhiều lần đề cập đến vấn đề sông Hương và cầu Trường Tiền, nhất là về năm xây cầu: Phan Thuận An, Phụ trương đặc biệt số 2; Quách Tấn, số 23; Hồ Tấn Phan, Nguyễn Thị Như Trang, số 29.
“Màu vàng lồng lộng chảy tràn lá xanh” là bộ sưu tập 11 chiếc áo dài xưa, bảo vật của gia đình Tiến sĩ Thái Kim Lan, gồm long bào Vua Khải Định, áo dài gấm the, áo mệnh phụ, áo lụa vàng, áo dài Hoàng thái hậu, áo mệnh phụ công nương, áo gấm xanh rêu, áo xiêm, áo dài lụa vân xanh... Được sự hỗ trợ của Viện Goethe tại Hà Nội lần này bộ sưu tập được đưa từ CHLB Đức về trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Huế, từ 18/5 đến 12/6/2016. Nghệ sĩ sắp đặt Veronika Witte, cũng từ CHLB Đức, trực tiếp thực hiện trong một không gian vô cùng lý tưởng. Tại phòng trưng bày chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh chủ nhân bộ sưu tập.
PHẠM HỮU THU
Những ai đã từng qua lại con đường Ngô Quyền, hẳn sẽ mừng vui khi thấy nơi này vừa xuất hiện một công trình mà nhiều người quen gọi là Bệnh viện quốc tế Trung ương Huế. Đây là mô hình xã hội hóa được thành lập theo Quyết định của Bộ trưởng Y tế và Bệnh viện Trung ương Huế là đơn vị đầu tiên của cả nước (trong số 18 bệnh viện) được Chính phủ cấp tín dụng ưu đãi nhằm hiện thực hóa chủ trương này.
LÊ QUANG THÁI
Một thời trong quá khứ xa gần, người phương Tây đã từng gọi và như đặt tên cho Đô thành Phú Xuân Huế là “thành phố quan lại”.
Một số thông tin chung
Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015. Trong đó có cho biết:
Một số thông tin chung
Một trong những bài viết nêu vấn đề Hội Quảng Tri - Huế có thể bị xóa bỏ đã được báo Tuổi Trẻ nêu lên trong bài “Huế xóa bỏ dấu tích nơi cụ Phan Bội Châu từng diễn thuyết?” ngày 26/11/2015.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Hội quán Quảng Tri hiểu một cách nôm na ý nghĩa về cái tên của hội quán này là nơi giao lưu, sinh hoạt văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật... nhằm mở rộng sự hiểu biết.
LTS: Trong thời gian qua, báo chí trong nước đã phản ảnh về việc Hội Quảng Tri - nơi diễn ra các hoạt động khai trí ở Huế đầu thế kỷ 20 - được đề xuất phá dỡ, xây mới để làm …trụ sở UBND phường.
Đề xuất này khiến người dân Huế và những người yêu Huế nói chung, nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ Huế nói riêng lo lắng, nhiều ý kiến đề nghị cần cẩn trọng.
ĐỖ XUÂN CẨM
TƯỞNG HAI LÀ MỘT, NHƯNG MỘT MÀ HAI
Nhắc tới cây Bồ đề, hầu như đa phần người dân xứ Huế có cảm giác rất thân thuộc.
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Từ năm 1917, tạp chí B.A.V.H đăng bài “Cầu ngói Thanh Thủy” của R.Orban. Trong bài nghiên cứu này ngoài phần khảo tả cầu ngói, tác giả đã công bố bản dịch đạo sắc do vua Lê Hiển Tông ban khen bà Trần Thị Đạo, người có công đóng góp tiền của xây dựng cầu ngói Thanh Thủy.
NGUYỄN XUÂN HOA
Năm 1776, trong sáu tháng làm quan ở Huế, có điều kiện ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, đọc kỹ văn thơ ở vùng đất Thuận Hóa để viết tập bút ký Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn đã đưa ra một nhận định mang tính tổng kết: Đây là vùng đất “văn mạch một phương, dằng dặc không dứt, thực đáng khen lắm!”.
Ở thời điểm năm 1987, GS Trần Quốc Vượng là người đầu tiên nêu quan điểm cần đổi mới tư duy lịch sử, nhận thức đúng sự thật lịch sử và thảo luận tự do, dân chủ, rộng rãi, trong đó có vấn đề xem xét lại nhà Nguyễn và thời Nguyễn.