Dã Lê hay Dạ Lê

14:45 28/02/2014

Lâu nay, nhiều người ở thị xã Hương Thủy, và có những người ở địa phương khác thường gọi hai ngôi làng một ở xã Thủy Vân, một ở phường Thủy Phương hiện nay, là Dạ Lê (bao gồm làng Chánh ở xã Thủy Vân và làng Thượng ở phường Thủy Phương). 

 

Điều này lâu dần trở thành quen miệng và hầu hết đều gọi như vậy. Cũng không phải lạ, đến nỗi, con đường nối từ đường Nguyễn Tất Thành vào đến tận tiểu khu công nghiệp Thủy Phương, tức tỉnh lộ 7 cũ (đường Gia Long) cũng được đặt tên là Dạ Lê. Có nơi, ngay trên cái cổng hậu của làng cũng được gắn 5 chữ rằng: đình làng Giạ Lê Thượng. Nhiều người con của 2 làng (Chánh và Thượng) đều nhầm lẫn như vậy.

Tuy nhiên, sự thật tên gốc lại không phải Dạ Lê hay Giạ Lê mà là Dã Lê!

Cuốn sách đầu tiên đề cập đến làng Dã Lê là cuốn “Ô Châu Cận Lục” của Dương Văn An (1514 - 1591), trong đó, ông đã nói như sau: “Mưa Dã Lê tưới cho vườn quả thêm mượt mà, gió Hoa Thử đưa hương mùi lúa chín”. Chữ “Dã” được ông dùng chứ không dùng chữ “Dạ” hay “Giạ”. Rồi hơn 200 năm sau, học giả Lê Quý Đôn (1726 - 1784) cũng ghi rằng “Dã Lê” chứ không một từ nào khác với miêu tả về cái nghề đan ghe tre và làm mui thuyền của người Dã Lê. Tại sao hai tác giả thời kỳ trung đại khi viết đều dùng chung hai chữ là “Dã Lê” mà không một chữ nào khác ?
Về sau, ngay đầu thế kỷ thứ 19, năm 1811, khi trình xin chia tách bộ điền (chia đất đai) giữa Dã Lê Chánh xã và Dã Lê Thượng thôn, đơn trình của đại diện Dã Lê Thượng thôn cũng ghi “dã lê”, trong các vấn đề cần trình bày của mình. Hiện nay, bản gốc tờ đơn trình này đang được họ Nguyễn Đình (từ đường ở tổ 2 – phường Thủy Phương) cất giữ. Điều đó chứng tỏ rằng, hơn 200 năm trước, những cụ già ở hai làng Dã Lê Chánh và Dã Lê Thượng đã gọi làng mình là “dã” chứ không phải “dạ” hay “giạ”.
 
Hơn nữa, các sắc phong của triều đình nhà Nguyễn cho các vị khai canh, khai khẩn của hai làng đều ghi về hai làng là “dã”. Ví dụ, sắc phong vào năm Khải Định thứ 2 (1917) phong cho vị khai canh làng Dã Lê Thượng (phường Thủy Phương) với nguyên văn chữ Hán như sau: “ Sắc Thừa Thiên phủ Hương Thủy huyện Dã Lê Thượng xã phụng sự Bổn thổ Tiền khai canh Nguyễn Đình Thủy đại lang chi thần, nhẫm trước linh ứng tứ kim phi thừa, cảnh mệnh miễn niệm thần hưu trước phong vị Dực bảo Trung hưng Linh phò chi thần, chuẩn kỳ phụng sự thứ cơ thần kỳ tướng hưu bảo ngã lê dân, Khâm tai!” 
 
Trên sắc phong về cụ Nguyễn Đình Thủy, 3 chữ “Dã Lê Thượng” là các chữ thứ 8, 9 và 10, đọc từ phải sang theo kiểu đọc văn bản chữ Hán xưa. Chữ thì như thế nhưng cũng có người sẽ đặt câu hỏi rằng: “Chẳng lẽ các văn bản lại đọc chệch, đọc trại đi so với cách phát âm thông thường của nhiều người ?”.
Tương tự là ở sắc phong thứ 2 này, dòng thứ nhất (bên phải sang) cũng là: “Sắc: Thừa Thiên phủ Hương Thủy huyện Dã Lê Thượng Xã …”
 
Chữ “dã” ở các sắc phong trên đều có bộ “điền” và bộ “thổ”, có nghĩa là “đất đai, đồng ruộng”. 
Điều đáng lưu ý rằng khi sử dụng chữ Hán, một ngôn ngữ đòi hỏi sự am hiểu tường tận về ngữ nghĩa, thậm chí là sử dụng chữ đôi khi còn dựa trên điển tích hay chương cú, những người uyên thâm Hán học ở triều đình phong kiến như Dương Văn An, Lê Quý Đôn và các văn quan bộ Lễ triều Nguyễn không thể hồ đồ mà lại có cách sử dụng nhất quán như vậy được. 
 
 
Nhưng tại sao người ta lại đọc chệch, đọc trại mà ngay người hai làng Dã Lê hiện nay ở thị xã Hương Thủy cũng phát âm như thế ? Có điều đặc biệt ở đây chính là yếu tố biến âm trong các từ gốc. Người Dã Lê xưa nói riêng và nhiều làng ở Thừa Thiên nói chung không phát âm “s” được mà thay bằng “th”, cho nên, phát âm là “khẩu thúng” mà không phải “khẩu súng”. Và không đọc được dấu “ngã” mà chỉ đọc được dấu “nặng”,  vì thế, người làng chỉ có “đôi đụa” mà không có “đôi đũa”. Người làng không phát âm được từ “sữa” mà chỉ phát âm được từ “thựa” !
Chính vì thế, người làng mình ngày xưa đã gọi trại đi tên gốc “Dã Lê” thành “Dạ Lê”! Sau này, chúng ta cứ quen miệng nói “dạ” mà quên rằng do cha ông mình phát âm và cứ nghĩ rằng “Dạ Lê” chứ không nghĩ đến “Dã Lê”. Đó là dấu vết của một ngôn ngữ cổ mà người “khu 4” – từ Nghệ An vô tới Thừa Thiên này./. 
 
Theo huongthuy.thuathienhue.gov.vn
 
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM HẠNH THƯ

    Du lịch Huế xưa
    Du lịch Huế có một lịch sử thơ ca dân gian gắn liền với những bước phát triển của mình.

  • LÊ VĂN LÂN 

    Khi nói đến xây dựng và phát triển Huế, không ai không nghĩ đó là một “thành phố xanh”. Đó không chỉ là suy nghĩ của những nhà đô thị hiện đại mà là một chuỗi trăn trở từ những người đầu tiên xây dựng Huế, những người dân bản địa đến các nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, du khách đến Huế trong và ngoài nước.

  • PHƯƠNG ANH

    Thủy Biều - làng quê cổ kính

    Ai từng đến vùng đất phù sa bãi bồi bên dòng sông Hương, hẳn không quên được cái mát mẻ, trong lành và cổ kính cùng với con người hòa nhã nơi đây; Thủy Biều, vùng đất của xứ hoa thơm quả ngọt.

  • Không phải đền đài, lăng tẩm uy nghi mà chính những điều bình dị như góc phố yên bình hay giọng nói ngọt ngào đã để lại nỗi nhớ khôn nguôi trong lòng du khách.

  • LTS: Cuối tháng 4, trên đường từ thành phố Hồ Chí Minh trở lại Hà Nội, sau đợt "trốn rét", bác sĩ Nguyễn Khắc Viện có ghé lại Huế. Bác sĩ định dừng chân lại đây lặng lẽ, âm thầm "trò chuyện" với những kỷ niệm thời niên thiếu của mình 65 năm trước. Thế nhưng những người mến mộ bác sĩ ở Huế lại không muốn như vậy. Và thế là những cuộc "chuyện trò" chung đã được tổ chức, tiếp ngày này sang ngày khác, giữa bác sĩ và cán bộ các ngành các giới. Dưới đây là một mẩu "chuyện trò" bác sĩ gởi lại bạn đọc Sông Hương trước khi lên đường.(S.H)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Mùa hạ, mùa sen.
    Sen kín mặt các hồ Tịnh Tâm, hồ hào thành quanh Thành Nội.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

    Chúng tôi không quy lại vấn đề từ đầu để khẳng định sự tồn tại của "Văn hóa Phú Xuân", nghĩa là xét xem liệu thuật ngữ "Văn hóa Phú Xuân" có một nội dung đích thực hay không; công việc này giáo sư Lê Văn Hảo đã làm xong, qua một loạt những công trình kiểm kê có tính hệ thống của ông.

  • Lâu nay, Huế được mệnh danh là miền đất của thi ca, đồng thời là vùng văn hóa ẩm thực lớn của cả nước. Sinh ra và trưởng thành trong môi trường đặc trưng thi vị ấy, rất nhiều phụ nữ Huế trở thành những tác gia tiêu biểu trên lĩnh vực nghệ thuật ẩm thực.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC - NGUYỄN XUÂN HOA

    Phú Xuân - Huế là nơi có nhiều danh nhân lịch sử và văn hóa của đất nước đã sống và làm việc.

  • Bài phát biểu của nhà văn Tô Nhuận Vỹ, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương trong Hội thảo nhân kỷ niệm 300 năm Phú Xuân do Thành ủy và UBND thành phố Huế tổ chức cuối 1987.

  • Đến Huế mà chưa thưởng thức hết những món bánh bèo, bánh nậm, lọc, ít, ram, khoái... thì quả là đáng tiếc.

  • LÊ VĂN LÂN

    Phong trào đô thị trong chống Mỹ cứu nước được khởi đầu bằng phong trào Hòa Bình, phong trào phát triển sâu rộng ở các thành thị miền Nam, đặc biệt là Huế và Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay)…

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG  

    Thần Phù là một làng lớn ở phía Nam kinh thành Huế, dưới thời Nguyễn có đơn vị hành chính là xã, thuộc tổng Lương Văn, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên.

  • NGUYỄN HUY KHUYẾN 

    Sông Hương núi Ngự từ xưa đến nay vẫn là thi tứ quen thuộc của nhiều tao nhân mặc khách du ngoạn thưởng lãm làm thơ. Ngay cả các vị vua triều Nguyễn viết về sông Hương núi Ngự cũng không ít bài. Ngoài việc nơi đây là cảnh đẹp hiếm có của đất Thần kinh, nó còn là báu vật của tự nhiên ban tặng để bảo vệ Kinh đô. Theo thuật phong thủy, Ngự Bình làm tiền án, sông Hương làm minh đường.

  • Hiếm có món ăn nào chứa đầy mâu thuẫn và cũng đầy... hợp lý như bún bò Huế.

  • Khi biết tôi muốn đến làng Chuồn - ngôi làng lớn ở xã Phú An, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế, nhiều người ở TP Huế đã nhắc tôi phải rất ý tứ, kẻo làm phật lòng người dân ở ngôi làng “có cá tính” này. 

  • MAI KHẮC ỨNG - TỐNG VIẾT TUẤN

    Giữa sân Thế Miếu trong Hoàng Thành thuộc cố đô Huế có chín đỉnh đồng lớn được gọi một tên chung là Cửu Đỉnh.

  • Ký sự NGUYỄN ĐĂNG HỰU

    Tam Giang rộng lắm ai ơi
    Ai về ngoài Sịa nhắn người năm xưa

  • Mỗi khi đông về, nhiều góc phố ở cố đô thơm lừng món chè nóng hấp dẫn học trò. Mùa mưa ở Huế thường kéo dài từ tháng 7 đến tháng chạp, bắt đầu bằng những cơn dông đầu thu ồn ào đến những cơn mưa dầm dai dẳng, lạnh buốt xuyên suốt mùa đông.
     

  • Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).