Dấu ấn Carnaval hóa trong truyện mười ngày của Boccatio

17:02 08/08/2008
TRẦN NHẬT THƯTrong tiến trình nghệ thuật nhân loại, bên cạnh một thế giới hết sức “quan phương”, “hoàn kết” bao giờ cũng là một “thế giới lộn trái” đầy mê hoặc.

Thế giới vui nhộn ấy đã ngưng kết trong một số kiệt tác để thăng hoa thành một nguồn sống sung mãn, tràn trề, đủ sức gạt bỏ hoặc cuốn phăng mọi quy tắc lẫn chế ước ngặt nghèo. Nhưng để lý giải thấu suốt sức quyến rũ phi thường của nó lại là một vấn đề không hề đơn giản. Xin đơn cử, ngay từ khi danh tác “Gargantua và Pantagruel” mới ra đời, nhân dân Pháp đã không ngần ngại tôn vinh Rabelais (1494-1553) vào hàng ngũ của những thiên tài dân tộc kiệt xuất. Nhưng phải sau đó gần bốn thế kỷ, những ẩn số hóc búa mà “hiện tượng Rabelais” đã đặt ra mới chính thức được giải mã nhờ lý luận của một nhà nghiên cứu lỗi lạc người Nga Mikhail Mikhailovic Bakhtin (1895-1975). Bên cạnh Rabelais, Giovani Boccatio (1313-1375) cũng là một tên tuổi xuất sắc, luôn thu hút sự quan tâm, ngưỡng mộ của nhiều học giả hàng đầu thế giới. Bằng chứng là, Todorov, dưới ánh sáng của “tự sự học” đã tiến hành giải phẫu “ngữ pháp của Truyện Mười Ngày” hết sức ấn tượng [1.59]. “Decámeron” thực sự là một danh tác tầm cỡ mà chỉ cần mình nó thôi cũng đã quá đủ để Giovani Boccatio được toàn thể nhân loại biết đến với vai trò: “Người đặt nền móng đầu tiên cho nền văn xuôi Ý và mở đầu cho truyền thống truyện ngắn hiện thực Châu Âu” [2.16].
1. Vấn đề Carnaval hóa trong văn học
Trong nền văn hóa nhân loại, đặc biệt đối với các dân tộc Tây phương, Carnaval được xem là một trong những lễ hội có sức ảnh hưởng sâu xa và mãnh liệt nhất. Theo M. Bakhtin, Carnaval là một “hình thức trình diễn nguyên hợp mang tính chất lễ nghi” hay còn gọi là “hội giả trang”, “hội trá hình”. Loại hình này luôn hướng đến mục đích xóa nhòa mọi ranh giới khu biệt giữa sân khấu và quãng trường, cũng như diễn viên và khán giả. Lễ hội hướng tới phạm vi toàn dân - những chủ nhân đích thực và mang tính phổ quát sâu sắc.
Vì vậy, Carnaval còn góp phần xác lập một cuộc sống mới trên những bình diện vui nhộn, suồng sã, trái ngược với thứ đời sống nghiêm túc và hoàn bị hàng ngày. Nó thu hẹp nhằm tiến tới xóa bỏ không thương tiếc những khoảng cách giữa mọi người. Ở đấy, con người có thể vui tươi, nô nức trở lại với bản nguyên của chính mình; chỉ giản đơn là những con người đúng nghĩa chứ không được phép khoác thêm những lớp mũ áo tôn nghiêm, chuẩn mực của đạo đức, chức vị, tuổi tác lẫn giai cấp... Họ có thể mặc sức giao tiếp với nhau thông qua các hình thức ngôn ngữ và hành động bộc trực, suồng sã mang tính quảng trường.
Bakhtin cho rằng “Carnaval đem sáp gần, thống nhất, hôn phối và kết hợp cái thiêng liêng với cái phàm tục, cái cao cả với cái thấp hèn, cái lớn lao với cái nhỏ mọn, cái uyên thâm với cái dốt nát (Mesalliane) [4.119]. Sự thống nhất hài hòa và chuyển hóa lẫn nhau giữa những thuộc tính đối lập ấy đã kiến tạo thành “tính lưỡng trị” sâu sắc - một đặc trưng cơ bản của lễ hội Carnaval ở mọi thời đại. Sức mạnh và các chức năng trên đã góp phần thúc đẩy sự hoàn thành các hình thức hạ bệ, báng bổ, gắn liền với các yếu tố hạ tầng vật chất thân xác cũng như các hình thức phỏng nhại tài tình. Chúng ta dễ dàng bắt gặp tất cả các tính chất trên ở bất cứ lễ hội Carnaval nào: từ lễ hội chàng ngốc, ngày hội con lừa đến những kỳ nghỉ lễ Chúa giáng sinh, lễ Tiễn mùa đông (thường phổ biến ở Châu Âu và Nga)...
Mọi hình thức nghi lễ - hội hè nói trên đều là hạt nhân cơ bản của cảm quan Carnaval về thế giới: “cảm hứng về sự thay thế và biến đổi, cảm hứng về cái chết và sự đổi mới”. Nó biểu thị tính tương đối đầy vui nhộn, hay còn gọi là tính “không toàn vẹn vĩnh cửu của sự tồn tại” [M. Bakhtin].
Như vậy, trước thế kỉ XVII, Carnaval vẫn còn là một hình thức của bản thân đời sống. Do đó, Carnaval hóa cũng mang tính trực tiếp. Carnaval chính là cội nguồn sâu sắc của Carnaval hóa. Nhưng về sau, hội giả trang đã dần dần đánh mất tính toàn dân trên quảng trường đúng nghĩa và chấp nhận nhường ngôi cho ảnh hưởng của các tác phẩm văn học đã được Carnaval hóa sớm hơn.
2. Một số đặc điểm Carnaval hóa trong truyện Mười Ngày
Truyện Mười Ngày đã in đậm dấu ấn nền văn hóa trào tiếu dân gian trên rất nhiều bình diện.
Với những tư tưởng vô cùng tiến bộ, Boccatio đã nhìn nhận các hình tượng thân xác bằng nhãn quan của một nhà nhân văn chủ nghĩa. Ông quyết liệt chống đối quan điểm “trần thế là tạm thời, thể xác là thô bí” [3.49] của nhà thờ tôn giáo. Chính cảm quan Carnaval sâu sắc về thế giới đã thôi thúc nhà văn nồng nhiệt ngợi ca vẻ đẹp hình thể của nữ giới bất chấp mọi cấm đoán nghiêm ngặt của nhà thờ bấy lâu. Ngay việc dám dũng cảm đưa vào tác phẩm bức chân dung khỏa thân đẹp mê hồn của nàng Xiquyrăng kiều diễm (Những đồ trang sức không kín đáo) cũng đủ minh chứng cho thiện ý tốt đẹp ấy.
Nói cách khác, Boccatio luôn mạnh dạn đề cập tới những nhu cầu mang tính bản năng, với tư cách là một phạm trù bản nguyên của đời sống con người. Ngay như nhân vật Rênhiê dù đã suýt chết với một mối tình si vì những trò đùa dai tai quái của cô nàng Helen tàn nhẫn; và dù vẫn luôn sục sôi nung nấu một nỗi căm hận tột cùng, cũng không thể nào không động lòng Khi thấy Helen trần truồng đi sát bên chàng, chàng thấy thân cô trắng trẻo nổi bật trên nền đêm tối. Chàng nhìn bộ ngực và mọi vẻ hấp dẫn của người đàn bà ấy. Chà! Biết bao vẻ đẹp! Chàng nghĩ đến số phận dành cho nàng trong ít phút nữa. Một tình thương nào đó tràn ngập trong lòng chàng. Mặt khác, kích thích của xác thịt bỗng châm chích, gợi ở chàng một xu hướng mạnh mẽ từ trước tới nay bị tê liệt, thúc đẩy chàng ra khỏi chỗ ẩn để ôm lấy cô gái thù ghét và biến cô thành trò chơi của mình, chỉ thiếu chút nữa, chàng đáp ứng hai tiếng gọi ấy” (Không đùa giỡn với tình yêu). Trong cảm xúc của Rênhiê, rõ ràng đã có sự thống nhất giữa tinh thần và thể xác. Hình ảnh Helen vừa gợi lên trong lòng người đàn ông thù hận kia một sự ngưỡng mộ trước cái đẹp trác tuyệt vừa kích thích những cơn sóng của đam mê, dục vọng. Tất cả những chi tiết đó, đều bắt nguồn từ những ảnh hưởng đậm nét của tính “suồng sã hóa”, vốn đặc trưng của các lễ hội Carnaval, đối với văn học.
Boccatio còn khẳng định, con người dù có phát triển trong môi trường xã hội, nhưng vẫn không thể nào chối bỏ cội rễ - phần “Con mang tính bản năng của mình, ngay cả khi con người luôn cố tình phủ định. Sau cái chết của người vợ hiền yêu dấu, nhân vật Filip Banđuyxi quyết tâm xa rời thế tục, để cùng đứa con trai bé bỏng dốc lòng thờ phụng Đức Chúa trời. Thời gian cứ thế trôi đi, cho đến một ngày, khi người cha tin chắc đứa con đã hoàn toàn “đắc đạo”, mới thuận tình cho chàng trai theo mình xuống núi. Nào ngờ mới chỉ thoáng gặp những bóng hồng tung tăng trên phố, chàng trai đã “choáng váng” và nhanh chóng quên hẳn mọi thứ thú vị xung quanh lẫn những giáo huấn của người cha bấy lâu. Mặc dù Filip cứ ra sức khẳng định đó chỉ là “những con chim cái”, một thứ biểu tượng cho mọi điều xấu xa, nhưng đứa con vẫn ngây thơ bày tỏ: “Con chưa thấy hình vẽ nào đẹp và thích thú bằng những vật ấy. Chúng đẹp hơn tranh thiên thần mà bố đã nhiều lần chỉ cho con xem” (Tựa cho ngày thứ tư của mười ngày). Thậm chí, trước khi về núi, chàng còn một mực van xin người bố đem một trong những con chim cái kia theo cùng. Boccatio đã kết luận đầy mỉa mai: “ông bố hiểu rằng, thiên nhiên đã mạnh hơn những tính toán thông thái của ông”.
Trong toàn bộ một trăm truyện được kể suốt mười ngày, chủ đề tình yêu với đầy đủ mọi cung bậc phong phú cứ liên tục xuất hiện. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử văn học, có một tác giả dám lớn tiếng bênh vực và cổ vũ cho những lạc thú xác thịt của tình yêu chân chính. Chàng Ghixcar khi đối mặt với cơn thịnh nộ sấm sét của nhà Vua vẫn khẳng khái tuyên bố: “Sức mạnh của bệ hạ hay của bề tôi có nghĩa lý gì đâu bên sức mạnh của ái tình”. Đau đớn vì tình yêu bị bại lộ, lo âu khôn xiết cho số phận của người tình vốn xuất thân từ dòng dõi thường dân - Chàng Ghixcar yêu dấu, những tưởng, nữ công tước Ghixmôngđơ phải khuất phục trước vua cha. Song chính niềm kiêu hãnh phi thường và nghị lực vô biên của một tâm hồn đức hạnh nhưng cũng rất đỗi con người đã khiến nàng tiếp tục đấu tranh đến cùng: Thưa cha, cha là da là thịt, hẳn cha biết được một người con gái do cha đẻ ra là bằng da bằng thịt chứ không phải là đá tảng hay cục sắt. Niềm khao khát ái ân “là một sức mạnh không gì cưỡng nổi mà giới tính và tuổi trẻ của con người đã phải thua sức quyến rũ ấy”. Nàng nhấn mạnh, đó đơn thuần chỉ là những “tội lỗi của tự nhiên” mà bất cứ con người nào cũng sẽ mắc phải. Chính tình thương của thần ái tình và “sự khoan dung của số phận” đã dẫn lối cho hai trái tim nồng cháy tìm đến với nhau trong đam mê, say đắm (Thắng lợi của cái chết). Đến truyện Bêritôla, nhân vật Giuyfrêđi lại tiếp tục khẳng định chân lý ấy bằng những lý lẽ hết sức hùng hồn.
Cùng với những lạc thú xác thịt, hình ảnh về các cuộc vui chơi, ăn uống linh đình xuất hiện với tần số khá tương đối. Các câu chuyện bên bàn ăn đã manh nha xuất hiện (suy tưởng về kinh Phúc âm...). Đồng thời, giữa khung cảnh âm u sặc mùi chết chóc, mười nam thanh nữ tú đã quyết định hưởng thụ thật thỏa thích những thú vui lành mạnh như một động thái tích cực nhằm đẩy lui bóng ma lởn vởn của cái chết. Tất cả, đều góp phần kiến tạo nên tính hội hè vui tươi cho thế giới.
“Truyện Mười Ngày” đã bộc lộ một nhân sinh quan mới mẻ đầy tiến bộ. Cùng với sự hiện diện thường xuyên của nhiều hình tượng vật chất thân xác, tác phẩm đã bước đầu thể hiện nhiều động thái đáng khích lệ nhằm không ngừng “phục hồi danh dự vốn có cho xác thịt” (M.Bakhtin)
 Thủ pháp hạ bệ là một trong những đặc điểm cơ bản của lễ hội giả trang. Boccatio đặc biệt chú trọng sử dụng tiếng cười giòn giã để “đả phá”, “chế giễu” thứ học thuật kinh viện xơ cứng cũng như nền luân lý đạo đức phong kiến khắt khe. Tiếng cười hoan hỉ ấy, thậm chí còn không chịu buông tha các đấng quân vương chí tôn chí kính. Nhà vua Pháp vốn có ý định tán tỉnh hầu tước phu nhân ĐơMôngfera nổi danh tài sắc, nhưng đã nhanh chóng bị bậc nữ lưu lịch thiệp này dạy cho một bài học nhớ đời bằng một thực đơn toàn gà mái (Nhà vua đùa giỡn). Nhà vua còn có lúc biến thành bù nhìn để thiên hạ chửi rủa mắng nhiếc vì tội nhu nhược, bất tài (Nhà vua lười).
Sự chuyển vị “những phạm trù thiêng liêng” với tất cả những trạng thái tâm lí sóng đôi như sợ sệt, ngưỡng bái... thành những phạm trù tầm thường, thậm chí còn hết sức khả ố; chính là cơ sở để kiến tạo tiếng cười mang đậm sắc màu Carnaval. Tiếng cười đả phá - tái sinh còn xuất phát từ nhiều hình thức phỏng nhại được nhà văn sử dụng rất khéo léo và đắc địa. Boccatio đặc biệt chĩa mũi nhọn công kích về phía nhà thờ tôn giáo thông qua hàng loạt câu chuyện như: Tinh thần Giatô giáo, Con Ma, Dây thừng trên cổ... Tên đại tội đồ bịp bợm Xiappenlettô, cả đời gian ác, dâm đãng, ấy thế mà lại được phong thánh lúc qua đời nhờ màn xưng tội “ngây thơ”, giả dối đến trắng trợn. Những màn kịch trào lộng ấy thấm đẫm tinh thần vui nhộn của lễ hội giả trang. Chúng mang đậm dấu ấn tính lưỡng trị sâu sắc. Trong các câu chuyện tiếp theo tinh thần ấy vẫn không ngừng được bảo tồn, phát huy, thậm chí Boccatio còn không ngần ngại xuyên tạc, phỏng nhại cả Kinh Thánh, Thánh ca lẫn các lễ nghi của Gia tô giáo. Făngxoa Đatxi, tên tay sai của tòa án giáo hội đã tiến hành điều tra vì một câu nói trong lúc quá chén của một anh chàng tội nghiệp. Mục đích duy nhất của y không phải là bảo vệ danh dự cho Chúa mà để cố gắng vốc lấy Flôranh đầy tay” (đơn vị tiền tệ). Sau khi vơ vét, Đatxi vẫn không hề buông tha mà còn giữ lấy “khổ chủ” lại nhiều ngày ở bên mình, bắt anh ta phải trình diện đúng giờ và phải lắng nghe, phải sám hối bằng một lễ Misa thánh giá. Anh chàng trung hậu quyết định chơi cho tên gian ác một vố nhớ đời. Một hôm khi đến trình diện tên Đatxi vào giờ ăn trưa; anh ta bày tỏ thắc mắc bấy lâu của mình và rất đỗi thương cảm cho số phận đang chờ đợi Đatxi ở bên kia thế giới. Nguyên do xuất phát từ một câu Kinh Thánh mà anh ta đã nghe được ở lễ Misa: “Cho một người thì sẽ nhận được một trăm và sẽ có được đời sống vĩnh cửu”. Và anh ta bình tĩnh thưa tiếp: Hàng ngày anh thấy người ta đem một hoặc hai vạc cháo nóng bố thí cho người nghèo khó, cháo ấy là cháo thừa lấy ở tô Đatxi và các vị tu sĩ khác. “Nhưng nếu ở trên ấy cứ mỗi nồi người ta lại hoàn lại cho các cha một trăm nồi thì con nghĩ tất cả các cha sẽ chết ngạt mất”. Câu nói của chàng trai trung hậu làm mọi người được một bữa cười đau ruột nhưng đồng thời cũng vạch trần bộ mặt giả dối, bỉ ổi của Đatxi cùng với bọn tu sĩ lười biếng của hắn.
Không những thế, tác giả tiếp tục triệt để khai thác các “yếu tố thân xác hóa” như là một biện pháp hữu hiệu để “hạ bệ” những lĩnh vực cao siêu, thoát tục (Nữ tu sĩ, Viện cung nữ của chàng câm). Có một bà tu viện trưởng, đang đêm vùng dậy đi bắt quả tang một cô gái đồng trinh đang đắm say bên người tình. Chính tu viện trưởng cũng đang trong cơn hoan lạc với một gã mục sư. Trong lúc gấp rút, bà ta vô tình đội nhầm chiếc quần đùi của ông mục sư mà cứ ngỡ là chiếc khăn trùm đầu. Bắt được quả tang đôi tình nhân trẻ tuổi, bà liền giải Idabét đến hội trường, kèm theo “những câu chửi rủa xấu xa” hết mức có thể và ra sức buộc tội cô, bôi nhọ sự thánh thiện, danh dự lẫn tiếng thơm của tu viện, giữa lúc bà ta đang thao thao chửi vả, bất chợt cô gái tội nghiệp ấy ngước lên và bỗng nhiên phát hiện “chiếc khăn trùm đầu kì lạ của Sơ nhất”. Lúc bấy giờ, mọi sự mới bắt đầu vỡ lẽ. Không còn cách nào khác, tu viện trưởng đành nhanh chóng hạ giọng và kết luận rằng: “Con người ta không sao tự phòng ngừa nổi với những kích thích của xác thịt và rốt cuộc, cứ như trước mà tiếp tục, chị em nào có khả năng cứ việc hưởng lạc thú cho mình”. (Nữ tu sĩ).
Rõ ràng tu viện trưởng đã trở thành một nhân vật bị Carnaval hóa. Bà ta được “tấn phong” bằng uy quyền mắng chửi, lăng nhục người khác về những tội lỗi mà ngay cả bản thân mình còn phạm phải. Nhưng Sơ nhất cũng nhanh chóng bị hạ bệ bởi chiếc quần đùi đội trên đầu. Đây là thứ trang phục đặc trưng thường thấy ở các lễ hội giả trang.
Boccatio đã dùng tiếng cười đa chức năng như một phép màu để kiến tạo một thế giới lộn trái đầy sinh động, nơi mọi cái trang nghiêm thường nhật đều bị biến cải thành “những con ngáo ộp nực cười”.
Điều đặc biệt của tiếng cười Carnaval còn ở đối tượng mà nó hướng tới. Tiếng cười đó ít nhằm vào một cá nhân đơn lẻ mà chủ yếu hướng đến tập thể, thậm chí còn giễu cợt cả chính người đang đùa giỡn (Chả nhạo xanh).
 Chúng ta không thể không ghi nhận sự mầu nhiệm của tiếng cười Carnaval trong việc giúp “Truyện Mười ngày” bước đầu làm thay đổi quyền lực cũng như mọi trật tự ngặt nghèo của thế giới “phi Carnaval” đời thường. Bằng những lý lẽ hùng hồn của hệ thống nhân vật trong tác phẩm, nhà văn đã từng bước xác lập một sự bình đẳng đúng nghĩa giữa mọi giai cấp (đặc biệt đối với tình yêu).
Chính bản thân Boccatio đã từng khẳng định “mọi điều ở hạ giới này, không những không ổn định, mà không ngừng thay đổi”. Và xuyên suốt tác phẩm, ông luôn tập trung làm rõ mối quan hệ với thời gian và sự biến hóa như một đặc trưng quan trọng thấm đẫm tinh thần Carnaval trong việc biểu hiện tính không hoàn tất của thế giới. Đâu phải ngẫu nhiên mà tác giả để cho toàn bộ các câu chuyện vui nhộn diễn ra trên phông nền của sự chết chóc. Không thời gian mở đầu đã kết hợp cùng lúc hai thái cực của sự biến hóa: sự sống đi kèm cái chết; tiếng cười hòa lẫn với nước mắt. Và các chàng trai cô gái đã không ngần ngại quyết định chào đón tiếng cười hân hoan, biểu trưng cho sự sống, để lãng quên tiếng khóc tang thương hiện diện vì những cái chết oan khuất của người thân, như nhân vật Gargantua của Rabelais sau này.
 Xuất sắc cả về nội dung tư tưởng lẫn nghệ thuật biểu hiện, “Truyện Mười Ngày” là một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân văn tiến bộ và âm hưởng Carnaval, luôn bàng bạc trong đời sống văn hóa của nhân dân. Nó ngợi ca mọi lạc thú tình yêu cũng như cổ vũ khát khao sống đã đầy, trọn vẹn. Đồng thời, tác phẩm còn cất lên một chuỗi cười giòn tan, hoan hỉ, có sức đả phá hữu hiệu đối với mọi bất công, rào cản; nhằm tiến tới thiết lập một trật tự công bằng mới của thế giới.
Cống hiến lớn lao nhất mà cảm quan Carnaval đã mang lại cho kiệt tác bất hủ này, chính là việc tạo nên một dấu son sáng chói, góp phần vẫy gọi ánh bình minh huy hoàng của thời kỳ Phục Hưng về ngự trị trên toàn cõi Châu Âu - một thời đại vốn được mệnh danh là những năm tháng hoàng kim rực rỡ nhất của Carnaval và Carnaval hóa văn học. 
T.N.T

(nguồn: TCSH số 234 - 08 - 2008)

 


------------
1. Thi pháp văn xuôi, Tzvetan Todorov, Hà Nội, nxb Đại học Sư phạm.
2. Truyện mười ngày (Decameron), Boccatio, Đào Mai Quyên (dịch), Hà Nội, nxb Giáo dục.
3. Giáo trình văn học phương Tây ,Phùng Văn Tửu, Hà Nội, nxb Giáo dục.
4. Thi pháp tiểu thuyết, Dotoievski, M.Bakhtin, Hà Nội, nxb Giáo dục.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.