Dấu ấn Carnaval hóa trong truyện mười ngày của Boccatio

17:02 08/08/2008
TRẦN NHẬT THƯTrong tiến trình nghệ thuật nhân loại, bên cạnh một thế giới hết sức “quan phương”, “hoàn kết” bao giờ cũng là một “thế giới lộn trái” đầy mê hoặc.

Thế giới vui nhộn ấy đã ngưng kết trong một số kiệt tác để thăng hoa thành một nguồn sống sung mãn, tràn trề, đủ sức gạt bỏ hoặc cuốn phăng mọi quy tắc lẫn chế ước ngặt nghèo. Nhưng để lý giải thấu suốt sức quyến rũ phi thường của nó lại là một vấn đề không hề đơn giản. Xin đơn cử, ngay từ khi danh tác “Gargantua và Pantagruel” mới ra đời, nhân dân Pháp đã không ngần ngại tôn vinh Rabelais (1494-1553) vào hàng ngũ của những thiên tài dân tộc kiệt xuất. Nhưng phải sau đó gần bốn thế kỷ, những ẩn số hóc búa mà “hiện tượng Rabelais” đã đặt ra mới chính thức được giải mã nhờ lý luận của một nhà nghiên cứu lỗi lạc người Nga Mikhail Mikhailovic Bakhtin (1895-1975). Bên cạnh Rabelais, Giovani Boccatio (1313-1375) cũng là một tên tuổi xuất sắc, luôn thu hút sự quan tâm, ngưỡng mộ của nhiều học giả hàng đầu thế giới. Bằng chứng là, Todorov, dưới ánh sáng của “tự sự học” đã tiến hành giải phẫu “ngữ pháp của Truyện Mười Ngày” hết sức ấn tượng [1.59]. “Decámeron” thực sự là một danh tác tầm cỡ mà chỉ cần mình nó thôi cũng đã quá đủ để Giovani Boccatio được toàn thể nhân loại biết đến với vai trò: “Người đặt nền móng đầu tiên cho nền văn xuôi Ý và mở đầu cho truyền thống truyện ngắn hiện thực Châu Âu” [2.16].
1. Vấn đề Carnaval hóa trong văn học
Trong nền văn hóa nhân loại, đặc biệt đối với các dân tộc Tây phương, Carnaval được xem là một trong những lễ hội có sức ảnh hưởng sâu xa và mãnh liệt nhất. Theo M. Bakhtin, Carnaval là một “hình thức trình diễn nguyên hợp mang tính chất lễ nghi” hay còn gọi là “hội giả trang”, “hội trá hình”. Loại hình này luôn hướng đến mục đích xóa nhòa mọi ranh giới khu biệt giữa sân khấu và quãng trường, cũng như diễn viên và khán giả. Lễ hội hướng tới phạm vi toàn dân - những chủ nhân đích thực và mang tính phổ quát sâu sắc.
Vì vậy, Carnaval còn góp phần xác lập một cuộc sống mới trên những bình diện vui nhộn, suồng sã, trái ngược với thứ đời sống nghiêm túc và hoàn bị hàng ngày. Nó thu hẹp nhằm tiến tới xóa bỏ không thương tiếc những khoảng cách giữa mọi người. Ở đấy, con người có thể vui tươi, nô nức trở lại với bản nguyên của chính mình; chỉ giản đơn là những con người đúng nghĩa chứ không được phép khoác thêm những lớp mũ áo tôn nghiêm, chuẩn mực của đạo đức, chức vị, tuổi tác lẫn giai cấp... Họ có thể mặc sức giao tiếp với nhau thông qua các hình thức ngôn ngữ và hành động bộc trực, suồng sã mang tính quảng trường.
Bakhtin cho rằng “Carnaval đem sáp gần, thống nhất, hôn phối và kết hợp cái thiêng liêng với cái phàm tục, cái cao cả với cái thấp hèn, cái lớn lao với cái nhỏ mọn, cái uyên thâm với cái dốt nát (Mesalliane) [4.119]. Sự thống nhất hài hòa và chuyển hóa lẫn nhau giữa những thuộc tính đối lập ấy đã kiến tạo thành “tính lưỡng trị” sâu sắc - một đặc trưng cơ bản của lễ hội Carnaval ở mọi thời đại. Sức mạnh và các chức năng trên đã góp phần thúc đẩy sự hoàn thành các hình thức hạ bệ, báng bổ, gắn liền với các yếu tố hạ tầng vật chất thân xác cũng như các hình thức phỏng nhại tài tình. Chúng ta dễ dàng bắt gặp tất cả các tính chất trên ở bất cứ lễ hội Carnaval nào: từ lễ hội chàng ngốc, ngày hội con lừa đến những kỳ nghỉ lễ Chúa giáng sinh, lễ Tiễn mùa đông (thường phổ biến ở Châu Âu và Nga)...
Mọi hình thức nghi lễ - hội hè nói trên đều là hạt nhân cơ bản của cảm quan Carnaval về thế giới: “cảm hứng về sự thay thế và biến đổi, cảm hứng về cái chết và sự đổi mới”. Nó biểu thị tính tương đối đầy vui nhộn, hay còn gọi là tính “không toàn vẹn vĩnh cửu của sự tồn tại” [M. Bakhtin].
Như vậy, trước thế kỉ XVII, Carnaval vẫn còn là một hình thức của bản thân đời sống. Do đó, Carnaval hóa cũng mang tính trực tiếp. Carnaval chính là cội nguồn sâu sắc của Carnaval hóa. Nhưng về sau, hội giả trang đã dần dần đánh mất tính toàn dân trên quảng trường đúng nghĩa và chấp nhận nhường ngôi cho ảnh hưởng của các tác phẩm văn học đã được Carnaval hóa sớm hơn.
2. Một số đặc điểm Carnaval hóa trong truyện Mười Ngày
Truyện Mười Ngày đã in đậm dấu ấn nền văn hóa trào tiếu dân gian trên rất nhiều bình diện.
Với những tư tưởng vô cùng tiến bộ, Boccatio đã nhìn nhận các hình tượng thân xác bằng nhãn quan của một nhà nhân văn chủ nghĩa. Ông quyết liệt chống đối quan điểm “trần thế là tạm thời, thể xác là thô bí” [3.49] của nhà thờ tôn giáo. Chính cảm quan Carnaval sâu sắc về thế giới đã thôi thúc nhà văn nồng nhiệt ngợi ca vẻ đẹp hình thể của nữ giới bất chấp mọi cấm đoán nghiêm ngặt của nhà thờ bấy lâu. Ngay việc dám dũng cảm đưa vào tác phẩm bức chân dung khỏa thân đẹp mê hồn của nàng Xiquyrăng kiều diễm (Những đồ trang sức không kín đáo) cũng đủ minh chứng cho thiện ý tốt đẹp ấy.
Nói cách khác, Boccatio luôn mạnh dạn đề cập tới những nhu cầu mang tính bản năng, với tư cách là một phạm trù bản nguyên của đời sống con người. Ngay như nhân vật Rênhiê dù đã suýt chết với một mối tình si vì những trò đùa dai tai quái của cô nàng Helen tàn nhẫn; và dù vẫn luôn sục sôi nung nấu một nỗi căm hận tột cùng, cũng không thể nào không động lòng Khi thấy Helen trần truồng đi sát bên chàng, chàng thấy thân cô trắng trẻo nổi bật trên nền đêm tối. Chàng nhìn bộ ngực và mọi vẻ hấp dẫn của người đàn bà ấy. Chà! Biết bao vẻ đẹp! Chàng nghĩ đến số phận dành cho nàng trong ít phút nữa. Một tình thương nào đó tràn ngập trong lòng chàng. Mặt khác, kích thích của xác thịt bỗng châm chích, gợi ở chàng một xu hướng mạnh mẽ từ trước tới nay bị tê liệt, thúc đẩy chàng ra khỏi chỗ ẩn để ôm lấy cô gái thù ghét và biến cô thành trò chơi của mình, chỉ thiếu chút nữa, chàng đáp ứng hai tiếng gọi ấy” (Không đùa giỡn với tình yêu). Trong cảm xúc của Rênhiê, rõ ràng đã có sự thống nhất giữa tinh thần và thể xác. Hình ảnh Helen vừa gợi lên trong lòng người đàn ông thù hận kia một sự ngưỡng mộ trước cái đẹp trác tuyệt vừa kích thích những cơn sóng của đam mê, dục vọng. Tất cả những chi tiết đó, đều bắt nguồn từ những ảnh hưởng đậm nét của tính “suồng sã hóa”, vốn đặc trưng của các lễ hội Carnaval, đối với văn học.
Boccatio còn khẳng định, con người dù có phát triển trong môi trường xã hội, nhưng vẫn không thể nào chối bỏ cội rễ - phần “Con mang tính bản năng của mình, ngay cả khi con người luôn cố tình phủ định. Sau cái chết của người vợ hiền yêu dấu, nhân vật Filip Banđuyxi quyết tâm xa rời thế tục, để cùng đứa con trai bé bỏng dốc lòng thờ phụng Đức Chúa trời. Thời gian cứ thế trôi đi, cho đến một ngày, khi người cha tin chắc đứa con đã hoàn toàn “đắc đạo”, mới thuận tình cho chàng trai theo mình xuống núi. Nào ngờ mới chỉ thoáng gặp những bóng hồng tung tăng trên phố, chàng trai đã “choáng váng” và nhanh chóng quên hẳn mọi thứ thú vị xung quanh lẫn những giáo huấn của người cha bấy lâu. Mặc dù Filip cứ ra sức khẳng định đó chỉ là “những con chim cái”, một thứ biểu tượng cho mọi điều xấu xa, nhưng đứa con vẫn ngây thơ bày tỏ: “Con chưa thấy hình vẽ nào đẹp và thích thú bằng những vật ấy. Chúng đẹp hơn tranh thiên thần mà bố đã nhiều lần chỉ cho con xem” (Tựa cho ngày thứ tư của mười ngày). Thậm chí, trước khi về núi, chàng còn một mực van xin người bố đem một trong những con chim cái kia theo cùng. Boccatio đã kết luận đầy mỉa mai: “ông bố hiểu rằng, thiên nhiên đã mạnh hơn những tính toán thông thái của ông”.
Trong toàn bộ một trăm truyện được kể suốt mười ngày, chủ đề tình yêu với đầy đủ mọi cung bậc phong phú cứ liên tục xuất hiện. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử văn học, có một tác giả dám lớn tiếng bênh vực và cổ vũ cho những lạc thú xác thịt của tình yêu chân chính. Chàng Ghixcar khi đối mặt với cơn thịnh nộ sấm sét của nhà Vua vẫn khẳng khái tuyên bố: “Sức mạnh của bệ hạ hay của bề tôi có nghĩa lý gì đâu bên sức mạnh của ái tình”. Đau đớn vì tình yêu bị bại lộ, lo âu khôn xiết cho số phận của người tình vốn xuất thân từ dòng dõi thường dân - Chàng Ghixcar yêu dấu, những tưởng, nữ công tước Ghixmôngđơ phải khuất phục trước vua cha. Song chính niềm kiêu hãnh phi thường và nghị lực vô biên của một tâm hồn đức hạnh nhưng cũng rất đỗi con người đã khiến nàng tiếp tục đấu tranh đến cùng: Thưa cha, cha là da là thịt, hẳn cha biết được một người con gái do cha đẻ ra là bằng da bằng thịt chứ không phải là đá tảng hay cục sắt. Niềm khao khát ái ân “là một sức mạnh không gì cưỡng nổi mà giới tính và tuổi trẻ của con người đã phải thua sức quyến rũ ấy”. Nàng nhấn mạnh, đó đơn thuần chỉ là những “tội lỗi của tự nhiên” mà bất cứ con người nào cũng sẽ mắc phải. Chính tình thương của thần ái tình và “sự khoan dung của số phận” đã dẫn lối cho hai trái tim nồng cháy tìm đến với nhau trong đam mê, say đắm (Thắng lợi của cái chết). Đến truyện Bêritôla, nhân vật Giuyfrêđi lại tiếp tục khẳng định chân lý ấy bằng những lý lẽ hết sức hùng hồn.
Cùng với những lạc thú xác thịt, hình ảnh về các cuộc vui chơi, ăn uống linh đình xuất hiện với tần số khá tương đối. Các câu chuyện bên bàn ăn đã manh nha xuất hiện (suy tưởng về kinh Phúc âm...). Đồng thời, giữa khung cảnh âm u sặc mùi chết chóc, mười nam thanh nữ tú đã quyết định hưởng thụ thật thỏa thích những thú vui lành mạnh như một động thái tích cực nhằm đẩy lui bóng ma lởn vởn của cái chết. Tất cả, đều góp phần kiến tạo nên tính hội hè vui tươi cho thế giới.
“Truyện Mười Ngày” đã bộc lộ một nhân sinh quan mới mẻ đầy tiến bộ. Cùng với sự hiện diện thường xuyên của nhiều hình tượng vật chất thân xác, tác phẩm đã bước đầu thể hiện nhiều động thái đáng khích lệ nhằm không ngừng “phục hồi danh dự vốn có cho xác thịt” (M.Bakhtin)
 Thủ pháp hạ bệ là một trong những đặc điểm cơ bản của lễ hội giả trang. Boccatio đặc biệt chú trọng sử dụng tiếng cười giòn giã để “đả phá”, “chế giễu” thứ học thuật kinh viện xơ cứng cũng như nền luân lý đạo đức phong kiến khắt khe. Tiếng cười hoan hỉ ấy, thậm chí còn không chịu buông tha các đấng quân vương chí tôn chí kính. Nhà vua Pháp vốn có ý định tán tỉnh hầu tước phu nhân ĐơMôngfera nổi danh tài sắc, nhưng đã nhanh chóng bị bậc nữ lưu lịch thiệp này dạy cho một bài học nhớ đời bằng một thực đơn toàn gà mái (Nhà vua đùa giỡn). Nhà vua còn có lúc biến thành bù nhìn để thiên hạ chửi rủa mắng nhiếc vì tội nhu nhược, bất tài (Nhà vua lười).
Sự chuyển vị “những phạm trù thiêng liêng” với tất cả những trạng thái tâm lí sóng đôi như sợ sệt, ngưỡng bái... thành những phạm trù tầm thường, thậm chí còn hết sức khả ố; chính là cơ sở để kiến tạo tiếng cười mang đậm sắc màu Carnaval. Tiếng cười đả phá - tái sinh còn xuất phát từ nhiều hình thức phỏng nhại được nhà văn sử dụng rất khéo léo và đắc địa. Boccatio đặc biệt chĩa mũi nhọn công kích về phía nhà thờ tôn giáo thông qua hàng loạt câu chuyện như: Tinh thần Giatô giáo, Con Ma, Dây thừng trên cổ... Tên đại tội đồ bịp bợm Xiappenlettô, cả đời gian ác, dâm đãng, ấy thế mà lại được phong thánh lúc qua đời nhờ màn xưng tội “ngây thơ”, giả dối đến trắng trợn. Những màn kịch trào lộng ấy thấm đẫm tinh thần vui nhộn của lễ hội giả trang. Chúng mang đậm dấu ấn tính lưỡng trị sâu sắc. Trong các câu chuyện tiếp theo tinh thần ấy vẫn không ngừng được bảo tồn, phát huy, thậm chí Boccatio còn không ngần ngại xuyên tạc, phỏng nhại cả Kinh Thánh, Thánh ca lẫn các lễ nghi của Gia tô giáo. Făngxoa Đatxi, tên tay sai của tòa án giáo hội đã tiến hành điều tra vì một câu nói trong lúc quá chén của một anh chàng tội nghiệp. Mục đích duy nhất của y không phải là bảo vệ danh dự cho Chúa mà để cố gắng vốc lấy Flôranh đầy tay” (đơn vị tiền tệ). Sau khi vơ vét, Đatxi vẫn không hề buông tha mà còn giữ lấy “khổ chủ” lại nhiều ngày ở bên mình, bắt anh ta phải trình diện đúng giờ và phải lắng nghe, phải sám hối bằng một lễ Misa thánh giá. Anh chàng trung hậu quyết định chơi cho tên gian ác một vố nhớ đời. Một hôm khi đến trình diện tên Đatxi vào giờ ăn trưa; anh ta bày tỏ thắc mắc bấy lâu của mình và rất đỗi thương cảm cho số phận đang chờ đợi Đatxi ở bên kia thế giới. Nguyên do xuất phát từ một câu Kinh Thánh mà anh ta đã nghe được ở lễ Misa: “Cho một người thì sẽ nhận được một trăm và sẽ có được đời sống vĩnh cửu”. Và anh ta bình tĩnh thưa tiếp: Hàng ngày anh thấy người ta đem một hoặc hai vạc cháo nóng bố thí cho người nghèo khó, cháo ấy là cháo thừa lấy ở tô Đatxi và các vị tu sĩ khác. “Nhưng nếu ở trên ấy cứ mỗi nồi người ta lại hoàn lại cho các cha một trăm nồi thì con nghĩ tất cả các cha sẽ chết ngạt mất”. Câu nói của chàng trai trung hậu làm mọi người được một bữa cười đau ruột nhưng đồng thời cũng vạch trần bộ mặt giả dối, bỉ ổi của Đatxi cùng với bọn tu sĩ lười biếng của hắn.
Không những thế, tác giả tiếp tục triệt để khai thác các “yếu tố thân xác hóa” như là một biện pháp hữu hiệu để “hạ bệ” những lĩnh vực cao siêu, thoát tục (Nữ tu sĩ, Viện cung nữ của chàng câm). Có một bà tu viện trưởng, đang đêm vùng dậy đi bắt quả tang một cô gái đồng trinh đang đắm say bên người tình. Chính tu viện trưởng cũng đang trong cơn hoan lạc với một gã mục sư. Trong lúc gấp rút, bà ta vô tình đội nhầm chiếc quần đùi của ông mục sư mà cứ ngỡ là chiếc khăn trùm đầu. Bắt được quả tang đôi tình nhân trẻ tuổi, bà liền giải Idabét đến hội trường, kèm theo “những câu chửi rủa xấu xa” hết mức có thể và ra sức buộc tội cô, bôi nhọ sự thánh thiện, danh dự lẫn tiếng thơm của tu viện, giữa lúc bà ta đang thao thao chửi vả, bất chợt cô gái tội nghiệp ấy ngước lên và bỗng nhiên phát hiện “chiếc khăn trùm đầu kì lạ của Sơ nhất”. Lúc bấy giờ, mọi sự mới bắt đầu vỡ lẽ. Không còn cách nào khác, tu viện trưởng đành nhanh chóng hạ giọng và kết luận rằng: “Con người ta không sao tự phòng ngừa nổi với những kích thích của xác thịt và rốt cuộc, cứ như trước mà tiếp tục, chị em nào có khả năng cứ việc hưởng lạc thú cho mình”. (Nữ tu sĩ).
Rõ ràng tu viện trưởng đã trở thành một nhân vật bị Carnaval hóa. Bà ta được “tấn phong” bằng uy quyền mắng chửi, lăng nhục người khác về những tội lỗi mà ngay cả bản thân mình còn phạm phải. Nhưng Sơ nhất cũng nhanh chóng bị hạ bệ bởi chiếc quần đùi đội trên đầu. Đây là thứ trang phục đặc trưng thường thấy ở các lễ hội giả trang.
Boccatio đã dùng tiếng cười đa chức năng như một phép màu để kiến tạo một thế giới lộn trái đầy sinh động, nơi mọi cái trang nghiêm thường nhật đều bị biến cải thành “những con ngáo ộp nực cười”.
Điều đặc biệt của tiếng cười Carnaval còn ở đối tượng mà nó hướng tới. Tiếng cười đó ít nhằm vào một cá nhân đơn lẻ mà chủ yếu hướng đến tập thể, thậm chí còn giễu cợt cả chính người đang đùa giỡn (Chả nhạo xanh).
 Chúng ta không thể không ghi nhận sự mầu nhiệm của tiếng cười Carnaval trong việc giúp “Truyện Mười ngày” bước đầu làm thay đổi quyền lực cũng như mọi trật tự ngặt nghèo của thế giới “phi Carnaval” đời thường. Bằng những lý lẽ hùng hồn của hệ thống nhân vật trong tác phẩm, nhà văn đã từng bước xác lập một sự bình đẳng đúng nghĩa giữa mọi giai cấp (đặc biệt đối với tình yêu).
Chính bản thân Boccatio đã từng khẳng định “mọi điều ở hạ giới này, không những không ổn định, mà không ngừng thay đổi”. Và xuyên suốt tác phẩm, ông luôn tập trung làm rõ mối quan hệ với thời gian và sự biến hóa như một đặc trưng quan trọng thấm đẫm tinh thần Carnaval trong việc biểu hiện tính không hoàn tất của thế giới. Đâu phải ngẫu nhiên mà tác giả để cho toàn bộ các câu chuyện vui nhộn diễn ra trên phông nền của sự chết chóc. Không thời gian mở đầu đã kết hợp cùng lúc hai thái cực của sự biến hóa: sự sống đi kèm cái chết; tiếng cười hòa lẫn với nước mắt. Và các chàng trai cô gái đã không ngần ngại quyết định chào đón tiếng cười hân hoan, biểu trưng cho sự sống, để lãng quên tiếng khóc tang thương hiện diện vì những cái chết oan khuất của người thân, như nhân vật Gargantua của Rabelais sau này.
 Xuất sắc cả về nội dung tư tưởng lẫn nghệ thuật biểu hiện, “Truyện Mười Ngày” là một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân văn tiến bộ và âm hưởng Carnaval, luôn bàng bạc trong đời sống văn hóa của nhân dân. Nó ngợi ca mọi lạc thú tình yêu cũng như cổ vũ khát khao sống đã đầy, trọn vẹn. Đồng thời, tác phẩm còn cất lên một chuỗi cười giòn tan, hoan hỉ, có sức đả phá hữu hiệu đối với mọi bất công, rào cản; nhằm tiến tới thiết lập một trật tự công bằng mới của thế giới.
Cống hiến lớn lao nhất mà cảm quan Carnaval đã mang lại cho kiệt tác bất hủ này, chính là việc tạo nên một dấu son sáng chói, góp phần vẫy gọi ánh bình minh huy hoàng của thời kỳ Phục Hưng về ngự trị trên toàn cõi Châu Âu - một thời đại vốn được mệnh danh là những năm tháng hoàng kim rực rỡ nhất của Carnaval và Carnaval hóa văn học. 
T.N.T

(nguồn: TCSH số 234 - 08 - 2008)

 


------------
1. Thi pháp văn xuôi, Tzvetan Todorov, Hà Nội, nxb Đại học Sư phạm.
2. Truyện mười ngày (Decameron), Boccatio, Đào Mai Quyên (dịch), Hà Nội, nxb Giáo dục.
3. Giáo trình văn học phương Tây ,Phùng Văn Tửu, Hà Nội, nxb Giáo dục.
4. Thi pháp tiểu thuyết, Dotoievski, M.Bakhtin, Hà Nội, nxb Giáo dục.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).