Cung bậc lòng người

08:30 02/06/2009
NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

66 bài thơ trong tập Nỗi niềm để ngỏ là 66 cái nấc của anh giữa cuộc đời. Ngay trong "nơi yên lành" anh đã nhận ngay ra:
            Tiếng bom đạn lắng xuống
            Tiếng múa lưỡi rộn lên
"Tiếng múa lưỡi ấy" là cung bậc mới của lòng người sau chiến tranh. Bởi lẽ, lúc này đây mọi tính toán của riêng mình mới được bộc lộ hết mình. Xưa, lòng người đi cùng một hướng, đó là khát vọng độc lập tự do cho đất nước. Giờ thì người nào cũng đi theo ngả rẽ của riêng mình cả.
Cái riêng lẻ mỗi cá nhân ấy lại gặp biển cả đầu Ngô mình Sở: "cơ chế thị trường", nên nó tha hồ vẫy vùng. Lê Lâm Ứng đã nhìn rõ chân tướng của chúng:
            Khi đã chễm chệ trên bàn thờ
            Cóc và Nhái đứng bằng hai chân cười hô hố.

Thế đấy, cái thời cóc, nhái ngồi trên bàn thờ. Đó là thời đạo đức đảo điên. Khi cóc nhái đã chiếm được chỗ đứng trên bàn thờ thì Con Người bị hạ nhục. Ứng viết sắc sảo, nhìn thấy lũ cóc nhái "đứng bằng hai chân", vốn sinh ra chúng chỉ biết bò, mỗi bước đi, lệch người sang bên, và bước tiếp. Chỉ có con người là đứng được trên hai chân. Khác với loài cầm thú, là Người khi vượn Người đứng lên được bằng hai chân. Lũ tiểu nhân ấy thèm khát đứng hai chân như người. Song, dù đứng hai chân thật, cóc nhái vẫn là cóc nhái. Dẫu chúng muốn được tôn vinh:
            - Bây giờ bác tên gì?
            - Chú tên gì?

Chúng muốn có một cái tên như người. Song không được. Chúng ôm một nỗi thèm khát:
            Cả hai đều khát thèm, thèm khát
            được con người gọi chúng là người.
Cái nhìn của Lê Lâm Ứng thật sắc sảo. Bài thơ như một nhát cứa vào tim người: Sao lại để bọn cóc nhái nhảy lên bàn thờ? Và là một nhát chém vào lũ cóc nhái đòi học làm người, dù trái tim của chúng là trái tim nhái, cóc và bộ não của chúng là bộ não cóc nhái.

Xưa cụ Tam Nguyên Yên Đỗ viết nhạo báng bọn "Tiến sĩ giấy":
            Cũng cờ cũng biển cũng cân đai
            Cũng gọi ông nghè có kém ai.

Thời cơ chế thị trường này bọn Tiến sĩ Giấy nhan nhản. Chúng chỉ việc bỏ tiền ra là mua được.

Sự quái đản ấy gọi đúng tên của chúng là sự suy đồi. Sự suy đồi quyền lực, sự suy đồi nhân phẩm. Chúng có thể hù doạ được nhau, hù doạ được bọn cơ hội, chứ không thể nào che mắt được nhân dân. Sự trả lời của nhân dân là: im lặng. Nhưng rất rạch ròi.
Lê Lâm Ứng đã nhìn thấu đảo tâm trạng ấy, anh miêu tả kẻ "khi chưa là người trang trọng" thì:
            Gặp nhau tớ tớ mày mày
            Mắt nhoà tay nắm chặt tay
Và:
            Mọi người như ôm lấy bạn
            Vỗ lưng thân thiết nhiều nhiều
Rồi quý mến, thân tình tưởng như không có khoảng cách nữa:
            Xóm giềng gọi nhau í ới
            "Nó" về, mau đến thăm chơi.

Nhưng khi đã là người trang trọng rồi, tác giả không phải viết văn xuôi để kể cho chúng ta kẻ trang trọng ấy là tướng, là chủ tịch tỉnh hay một kẻ quyền thế nào khác! Nhưng tình cảm xóm làng đã khác, khác rất nhiều:
            Bây giờ gặp nhau giữa làng
            Vội vàng bắt tay hờ hững
            Đường làng ắng im, gió thoảng
            Nhà ai cửa đóng then cài.
Tại sao có sự trái ngược ấy? Một câu hỏi được đặt ra nhưng đã rõ ràng, không cần trả lời. Cái sự hiển hiện bày ra trước mắt kia, đó là đã trở thành người trang trọng.

Tôi có hai người bạn. Cùng là nghệ sĩ. Đó là chuyện thật trong đời. Một hôm gặp nhau trong bữa tiệc gia đình. Anh bạn kia hỏi: "Mình nghe anh em văn nghệ sĩ trong tỉnh đều quay lưng lại với ông, trừ những thằng cơ hội, đúng không?". Không chờ người bạn này trả lời, tôi nói: "Để mình nói rõ cho, không phải mọi người quay lưng lại anh ấy, mà anh ấy quay lưng lại với mọi người khi anh ta kiếm được tí chút quyền chức cơ cấu". Để hồ hởi lại với nhau, chỉ cần anh ta "đằng sau quay", thế là xong.

Quyền lực, tiền tài quả thật là một thứ thuốc phiện làm đảo điên tất cả.
Lê Lâm Ứng đã tỉnh ngộ cho kẻ trang trọng kia:
            Bây giờ thành người vô cảm
            Lao xao trên đỉnh không trung
            Bạn tưởng là mình thành đạt
            Thực tình đổi có lấy không.

Bác Hồ chẳng đã dạy đó sao: "Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có tài mà không có đức thì chỉ là người vô dụng".
Thành ngữ ta có câu rất hay: "im lặng ăn tiền". Bây giờ có ối kẻ im lặng, lấy im lặng làm phương châm, sợ mất lòng tất cả mọi người, bước qua xác bạn để tìm lấy một cái ghế ngồi, rồi khư khư giữ lấy, để kiếm chác, còn "sống chết mặc bay".
Cũng có kẻ không hẳn không biết, "nín thở qua sông" xong rồi, bắt đầu khoác lác ba hoa.

Lê Lâm Ứng cũng đã nhìn thấu tận tim đen chúng:
            Com lê cà vạt dương dương
            Cứ như mình đã tới đường lên tiên
            Dang tay giảng giải huyên thuyên
            Cái điều mờ mịt nơi miền mung lung.
                                                (Chợt tỉnh)
Lê Lâm Ứng rất tinh tế, nên anh đã chộp được những chi tiết thường ngày:
            Nhà anh Hàng Ngang phố
            Nhà em, tại Hàng Dầu
            Thương nhau sao cứ hỏi
            Quê hương anh ở đâu?
Đến nỗi:
            Tôi căn hộ tầng Một
            Bạn ở trên tầng Hai
            Chung ngôi nhà tập thể
            Vẫn cứ hỏi quê đâu?

Tìm đến người đồng hương để yêu mến nhau là đúng, nhưng không, chúng đang bè đảng đấy, tìm ê kíp, tìm lá chắn cho mình đấy. Nếu không có cớ để lôi kéo thì lơ. Chúng quên một điều rất lớn lao: Chúng ta là người Việt Nam. Bây giờ chủ nghĩa địa phương được khai thác một cách triệt để kéo bè kéo cánh. Tạo ra một ê kíp lũng loạn tất cả cơ chế, làm lung lay cả cơ chế ở chủ nghĩa địa phương hẹp hòi này.

Quả thật sau chiến tranh lòng người nhiều cung bậc. Lê Lâm Ứng chỉ nhẹ nhàng nhắc bằng lời người mẹ dặn con:
            Giá mà chồng mẹ về sau trận Điện Biên
            Giá mà con trai mẹ về sau mùa xuân đại thắng
            Biết bao người cứ nghĩ giá mà như thế
            Còn điều này: "Giá mà giặc giã vẫn còn"
            Con có nghĩ tới không.

Những "tiếng múa lưỡi" đã quên đi quá khứ, hay những kẻ không có quá khứ, nên chúng đua nhau "vẫy vùng" trên cơ thể đất nước sau 30 năm chiến tranh đã tan hoang, dựng lại thật vô vàn khó khăn này.
Trong bài "Nhớ" Lê Lâm Ứng thở dài:
            Đâu phải cuộc đời là ngọn gió ầm ào
            Giàu có vậy mà trống không là vậy.
Lê Lâm Ứng khắc khoải, đau đáu. Nhưng rất may, trong thơ anh, ta vẫn tìm thấy, một cái nhìn hết sức bình dân, khi Lê Lâm Ứng gặp lại đồng đội cũ của mình:
            Quá nửa cuộc đời gặp lại người tri kỷ
            Vẫn nụ cười xưa vẫn ánh mắt tin yêu
            Lạ nhỉ, có gì trong chúng ta nguyên vẹn
            Không chịu thay thay, không chịu đổi màu.
                                                (Tôi với cỏ và đất)

Đó là lời nhắn nhủ thật sâu nặng của anh, cũng là điều anh muốn được chia sẻ với mọi người. Nỗi niềm anh như lòng anh vẫn rộng mở, vẫn để ngỏ đón chờ những tấm lòng đồng điệu.

N.Q.H
(175/09-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?