Cư dân vạn đò - câu chuyện dài kỳ

10:36 22/05/2008
Những cái tên người kỳ lạ: CHỨA - ĐẾ - SAY - BIA - NEM - CHẢ - NHẬU - CHƠI - nghe vừa buồn cười nhưng cũng vừa xót xa. Tôi hỏi tiếp:- Nếu như sinh đứa con thứ 9 anh sẽ đặt tên gì?- Tên “CHỊU” - anh Dữ trả lời không chút đắn đo suy nghĩ.Như vậy sau 5 năm, người đàn ông này vẫn mẫn cảm với chức năng thiên phú mà trời cho đó là... bản năng tính dục của chàng Adam đương đại.Việc hình thành các khu định cư cho cư dân vạn đò là một giải pháp hữu hiệu, nó trở thành vấn đề bức xúc, là nhu cầu đòi hỏi của nhiều người dân.

ĐẶT TÊN CON... VÔ TỘI VẠ.
Nói đến Huế không thể không đề cập đến những con thuyền lênh đênh trên sông nước. Đặc biệt, khi đề cập đến chương trình dân số và phát triển không thể không nhắc đến một nhóm đối tượng mang tính đặc thù của chương trình, đó là cư dân vạn đò, những người đang sống trên sông nước.
Theo ước tính hiện nay có khoảng gần 1 vạn người đang sinh sống trên những con thuyền chật hẹp, dọc theo sông Hương và kéo dài trên phá Tam Giang, từ các xã Ngũ Điền của huyện Phong Điền trải dài cho đến đầm Cầu Hai của huyện Phú Lộc.
Khảo sát ở phường Phú Bình TP.Huế cho thấy, cư dân vạn đò là 1226 người, số trẻ em dưới 15 tuổi là 419 em, bằng 1/3 số dân đang sống trên mặt nước. Bình quân 1 hộ có 12 người, một cặp vợ chồng có 5 đến 6 con. Tỷ lệ này đối với cư dân vạn đò sống xa bờ ở trên phá Tam Giang sẽ còn cao hơn.
Trên những khoang thuyền chật hẹp này có diện tích từ 10-20 m2 vẫn còn những gia đình có đến 24 người cùng sinh sống với đầy đủ 4 thế hệ “Tứ đại đồng. .. đò”.
Việc sinh sản theo bản năng tự nhiên cũng còn khá phổ biến, văn hoá thấp, thu nhập chỉ vừa đủ ăn hăng ngày đã tạo ra cho những cặp vợ chồng suy nghĩ hết sức đơn giản trong việc chăm lo và giáo dục con cái, ngay cả việc đặt tên cho từng đứa con cũng đã phản ánh phần nào những tập tục lạc hậu vẫn còn tồn tại từ bao đời nay đối với cư dân sống trên sông nước ở Thừa Thiên Huế.
Chung chiêng trên con thuyền của một cư dân vạn đò Phú Bình, tôi đã nghe anh Phan Văn Dữ, 36 tuổi, vừa chỉ vào từng đứa con của mình vừa đọc tên như sau: CHỨA - ĐẾ - SAY - BIA - NEM - CHẢ - NHẬU - CHƠI”.
Nghe vừa buồn cười nhưng cũng vừa xót xa, tôi hỏi tiếp:
- Nếu như sinh đứa con thứ 9 anh sẽ đăt tên gì?
Tên “CHỊU”. Anh Dữ trả lời không chút đắn đo suy nghĩ.
NHÀ VÔ ĐỊCH... SINH SẢN.
Khi đối diện với chương trình dân số có nghĩa là đối diện với một thức tế mà ở đó tâm lý của cộng đồng về số con, về giá trị con trai, con gái đang là một khoảng cách bỏ ngỏ khá xa so với mong muốn của chương trình. Theo điều tra mẫu năm 1996 của Thừa Thiên Huế có đến 50,1% ý kiến cho rằng nhất thiết phải có con trai để nối dõi tông đường. Và cũng chỉ có 38,4% ý kiến chấp nhận mô hình gia đình nhỏ có từ 1-2 con. Đối với cư dân sống trên sông nước thì sao?
Đó cũng là lý do để chúng tôi xuôi thuyền về phá Tam Giang, đến vạn đò ở xã Phú An, nơi mà cách đây 5 năm, phóng sự “Quên cả tên con” của tác giả Nhất Lâm đã đề cập đến ông Trần Thống 43 tuổi và bà Trần Thị Ký 39 tuổi có cả thảy 15 đứa con đang còn sống. Vậy thì hiện nay, cặp vợ chồng này đang có bao nhiêu con?
- Xin chào anh Thống, cách đây 5 năm tôi đã gặp anh, anh còn nhớ không?
- Dạ nhớ.
- Hiện nay anh có bao nhiêu cháu?
- Dạ, kể ra thì 17 đứa nhưng mà có sa sút 1 đứa, vị chi là 16 đứa.
Như vậy, sau 5 năm, người đàn ông này vẫn mẫn cảm với chức năng thiên phú mà trời cho đó là... bản năng tính dục của chàng Ađam đương đại. Nhìn cháu bé khoảng 2-3 tuổi đang nép sau lưng mẹ với nước da đen trùi trũi, mái tóc vàng hoe vì nắng gió khiến tôi không khỏi chạnh lòng.
Mặc dầu trong 5 năm qua, những nỗ lực về công tác dân số kế hoạch hoá gia đình của xã là không ít nhưng cá biệt vẫn còn có những hộ gia đình sống trên sông nước như gia đình ông Thống vẫn tiếp tục sinh con.
Không chỉ ở Phú An, ở Quảng Công, Quảng Ngạn (Quảng Điền); ở Vinh Giang, Vinh Hiền (Phú Lộc) tình trạng đông con là một điều không thể phủ nhận được, và khả năng sinh sản của những phụ nữ là cư dân vạn đò ở ven phá Tam Giang đang là vấn đề quan ngại hiện nay.
Ơ một bộ phận cư dân vạn đò sống càng cách xa bờ thì mức độ hiểu biết về các biện pháp tránh thai đơn giản như bao cao su, thuốc ngừa thai càng ít. Lý do dễ hiểu là họ sống rày đây mai đó, theo đuôi con cá, con tôm. Và bản thân mạng lưới cộng tác viên dân số hiện nay vẫn chưa với tới được do điều kiện đi lại quá khó khăn, do thù lao cho cộng tác viên quá ít.
Ơ mục 2 điều 5 quyết định 3424/2000/QĐ-UB ngày 19/12/2000 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ghi rõ “Tăng mức thù lao cho cộng tác viên dân số là 20.000đ/người/tháng”. Như vậy nếu tính cả nguồn của Trung ương thì bình quân mỗi tháng, mỗi cộng tác viên được nhận thù lao là 40.000đ. Tuy nhiên kết quả so với thực tế vẫn chưa đáng là bao do mạng lưới cộng tác viên dân số ở cơ sở vẫn biến động nhiều hằng năm. Số cộng tác viên thật sự tâm huyết với chương trình dân số, đặc biệt là tâm huyết với cư dân vạn đò vẫn còn quá ít.
Tiếp cận chương trình dân số từ góc độ giáo dục, qua những phỏng vấn sâu của chúng tôi cho thấy, vẫn còn khá nhiều trẻ em trong độ tuổi đến trường nhưng không đi học được vì những lý do sau đây:
- Cháu năm nay 16 tuổi, học đến lớp 6 thì phải bỏ học vì trường xa quá, gia đình cháu nghèo, ba cháu không đủ tiền để đóng cho trường” (cháu NTH - vạn đò Vinh Hà - Phú Vang)
- “Cháu không đi học, ở đò vui hơn”
(cháu HVQ - 6 tuổi, vạn đò Phú Hiệp - Huế)
- “Cháu không đi học vì không có sách vở” (cháu TNL - vạn đò Đông Hải - Lộc Trì - Phú Lộc)...
Một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ đến mức sinh đó là đời sống kinh tế hiện nay của cư dân vạn đò, trên bình diện chung thu nhập của những người dân khu vực này là rất thấp. Nếu như ở trên phá Tam Giang thì nghề nghiệp chính của họ là đánh bắt tôm cá tự nhiên trên sông đầm bằng phương pháp thủ công, thu nhập từ 20.000 đồng đến 40.000 đồng một ngày.
Nếu như ở trên các vạn đò dọc sông Hương thì nghề nghiệp của họ là khai thác cát sạn, buôn bán ở chợ Đông Ba, đạp xích lô, và trẻ em có thể kiếm tiền bằng các nghề phụ như bán vé số, đánh giày...
Tuy nhiên, nếu biết tính toán và thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình thì đời sống vật chất và tinh thần của người dân vạn đò sẽ ngày càng được nâng lên như tâm sự của chị Hồ Thị Diều 38 tuổi ở vạn đò Phú Bình TP Huế:
- Một ngày vợ chồng em chở cát sạn một chuyến 70.000 đồng chia ra ăn uống 50.000 đồng, góp hụi 10.000 đồng để cho con ăn học, còn 10.000 đồng gia đình tiêu vặt...
NHỮNG TÍN HIỆU ĐÁNG MỪNG.
Bằng phương tiện xe gắn máy chúng tôi tìm đến nhà ông Chủ tịch xã Phú An (huyện Phú Vang) để minh chứng rõ nét hơn về những đổi thay lớn lao hiện nay của khu định cư dân vạn đò với 233 hộ, 1403 khẩu đã có nơi ăn ở khá ổn định.
Diện mạo của các khu định cư dân vạn đò không chỉ khởi sắc ở Phú Vang, Phú Lộc, Quảng Điền hay những địa bàn khác nằm rải rác trên đàm Cầu Hai, trên phá Tam Giang mà đặc biệt thành phố Huế; ở phường Trường An, Kim Long, Phú Hiệp... chủ trương này đã được cụ thể hoá bằng những chính sách kinh tế và xã hội, bằng hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng cho những khu định cư mới mà người dân vạn đò đã hằng mơ ước tự bao đời nay.
Ở một số vạn đò như Phú Bình, Phú Hậu sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền cơ sở đã là chiếc cầu nối quan trọng nhằm rút ngắn khoảng cách giữa sự thiếu hụt về vật chất và tinh thần của những người dân sống trên sông nước với đời sống vật chất và tinh thần của đa số cộng đồng đang sinh sống ở trên đất liền, khoảng cách đó chỉ cách nhau đôi bờ của con sông Hương đang chảy giữa lòng thành phố.
Tuy nhiên, khi đến khu định cư của phưòng Phú Hậu, nhiều người dân ở đây đều bày tỏ mong muốn của mình được chính quyền thành phố Huế sớm quan tâm về điều kiện cơ sở vật chất như điện, nước và công trình vệ sinh. Đáng quan tâm hơn cả là 11 hộ nhà chồ từ Phú Bình di chuyển sang Phú Hậu hơn 1 năm nay đang sinh sống trong điều kiện đáng lo ngại về vệ sinh - môi trường và sự đe dọa về tính mạng trong mùa mưa bão năm nay.
Đã có lần một cư dân sống trên sông nước ở xã Điền Lộc (Phong Điền) hằn học nói với tôi rằng: - Nhà nước nói vận động bà con lên định cư ở đất liền nhưng vợ chồng tôi xin mãi mà xã vẫn không cho dựng mỗi cái chòi vì lý do không đăng ký hộ khẩu ở xã.
Thiết nghĩ, vấn đề trên không phải là quá lớn, việc tạo điều kiện thuận lợi, ổn định nơi ăn chốn ở cho người dân trước hết là trách nhiệm của cấp uỷ chính quyền mỗi địa phương.
Bản chất của chương trình dân số luôn chứa đựng đầy tính nhân bản. Vì vậy, việc hình thành các khu định cư cho dân vạn đò là một giải pháp hữu hiệu, nó trở thành vấn đề bức xúc, là nhu cầu đòi hỏi của nhiều người dân. Bên cạnh đó, việc thay đổi nội dung và phương thức truyền thông cũng như tăng cường hơn nữa cho công tác tư vấn và vận động tại từng hộ gia đình phù hợp với đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán của cư dân vạn đò. Điều đó cho thấy muốn chuyển đổi được hành vi các cư dân vạn đò cần phải có sự tác động từ nhiều phía, trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục và các chính sách xã hội khác.
Với những nỗ lực đã và đang có hiện nay, chúng tôi tin rằng, bức tranh toàn cảnh về chương trình dân số và sức khoẻ sinh sản của cư dân vạn đò ở Thừa Thiên Huế sẽ ngày càng có những chuyển biến mạnh mẽ hơn.

ĐỨC HÙNG
(nguồn: TCSH số 149 - 07 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.

  • LTS: Đêm 30/8 vừa qua, tại Huế, Hội đồng toàn quốc họ Phạm Việt Nam tổ chức giới thiệu cuốn sách “Phạm Quỳnh - Một góc nhìn”, tập 2 do nhà sử học Nguyễn Văn Khoan biên soạn. Nhiều nhà nghiên cứu, nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi của Huế đã đến dự và phát biểu ý kiến.

  • BÙI KIM CHI

    “Giữ chút gì rất Huế đi em
    Nét duyên là trời đất giao hòa
    Dẫu xa một thời anh gặp lại
    Vẫn được nhìn em say lá hoa.

    (...)

  • CHU SƠN

    1.
    Này, xa là những cảm nhận chủ quan hàm chứa một góc nhìn giới hạn, tương đối và hoàn toàn xa lạ với những khẩu hiệu thời thượng là vĩnh cửu, muôn năm.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Cùng với rất nhiều nghề thủ công truyền thống trên đất nước Việt Nam, nghề Kim hoàn được biết đến với sự sáng lập của hai vị tổ sư Cao Đình Độ và Cao Đình Hương ngay trên vùng đất Cố đô. Tài năng của các ông đã biến nghề kim hoàn trở thành một nghề thủ công độc đáo, mang đậm sắc thái Việt và được truyền bá khắp ba miền đất nước trong hơn hai thế kỉ qua.

  • LÊ VĂN LÂN

    Hằng năm cứ vào dịp 9/1 (ngày sinh viên học sinh), ngày 26/3 (ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và giải phóng Huế), những người hoạt động trong phong trào (người ta thường gọi là “dân phong trào”) lại họp mặt tưởng nhớ những người hi sinh, ôn lại truyền thống, chia sẻ những trăn trở trước thời cuộc và tự dặn mình phải sống xứng đáng với những người đã khuất, những đùm bọc thương yêu mà nhân dân đã dành cho mình.

  • ĐÀO HÙNG
    (Nhân kỷ niệm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam)

    Hồi còn bé, đôi lần tôi được cha tôi là ông Đào Duy Anh, đưa đi chơi và có ghé thăm cụ Huỳnh Thúc Kháng. Rồi cũng có lần tôi thấy cụ Huỳnh đến gặp cha tôi ở ngôi nhà trên đường Hương Mỹ (nay là Chu Văn An), thành phố Huế.

  • LÊ MẬU PHÚ 
               Tùy bút 

    Sông Hương bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chạy dài hơn 60 cây số, qua nhiều rừng núi với thảm thực vật nhiệt đới đa dạng và nhận nhiều nguồn nước từ những con thác, rồi sau đó hợp lưu tại ngã ba Bằng Lãng thành một dòng sông, gọi là sông Hương. Từ đó, sông xuôi về biển thêm 30 cây số nữa.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    “Ơi khách đường xa, khách đường xa
    Dừng chân ghé lại Đông Ba chợ mình”

  • TRẦN NGUYÊN SỸ
                      Ghi chép

    Chúng ta thử hình dung Huế như một ngôi nhà cổ, mà con ngõ đón thập khách phía Nam là đoạn quốc lộ từ Thủy Dương xuống Phú Bài thì khỏi cần trả lời câu hỏi: Với Huế, Hương Thủy có quan trọng không?

  • HỮU THU - BẢO HÂN

    Không ít người ở Huế thế hệ sinh năm 1950 đã từng được ngắm cái điệu đà của rong rêu, sự bỡn đùa của từng đàn cá tung tăng theo chiều con nước sông Hương.

  • PHAN THUẬN AN

    Thái giám hay hoạn quan là những người đàn ông không có sinh thực khí, chuyên ở hầu hạ trong hậu cung của vua.
     

  • HỮU THU & BẢO HÂN

    Đường 12 được giới hạn từ ngã ba Tuần lên Bốt Đỏ. Chỉ kéo dài hơn 50 cây số nhưng đây là quãng đường không dễ vượt qua, bởi trước năm 1990, muốn lên A Lưới, từ Huế xe phải chuyển hướng ra Đông Hà, ngược đường 9, đến cầu Đakrong rẽ trái rồi men theo đường Hồ Chí Minh để vào. Thuở đó, đường xa, xe xấu nên cán bộ được phân công lên huyện vùng cao này ai cũng ái ngại và bỏ cuộc.

  • BÙI KIM CHI Tiên tổ phương danh lưu quốc sử Tử tôn tích đức kế gia phong

  • PHAN HƯƠNG THỦY Hệ thống lăng tẩm và Cung điện ở Huế luôn luôn là một đối tượng chính của các nhà nghiên cứu Mỹ thuật, và các nhà nghiên cứu lịch sử Huế đã để lại cho chúng ta những cái mà thời trước không còn.

  • Một số anh chị em ở Huế biết tôi có ghi chép được ít nhiều về Nguyễn Tuân, bảo tôi viết lại và gửi cho Tạp chí Sông Hương. Riêng tôi, muốn tạo một dịp để anh Nguyễn nói trực tiếp với bạn đọc Sông Hương, nên xin được hỏi anh Nguyễn chung quanh chuyện Huế, được anh Nguyễn nhận lời, tôi xin trung thành ghi lại toàn bộ cuộc trò chuyện đó.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANGHiếm nơi nào trên đất Huế có phong thủy hữu tình, trời, đất, nước, người cùng quyện hòa thanh thái trong một không gian xanh ngát xanh như đất thôn Vỹ. Đất này được dòng Hương Giang và phụ lưu Như Ý ôm trọn vào lòng như hai cánh tay của một người mẹ vỗ về.

  • TRẦN THÙY MAI Tôi sinh ra và lớn lên ở Huế. Với tất cả mọi người, ai cũng thế, sau quê hương lớn là Tổ quốc Việt Nam, đều yêu và đều thích nói về quê hương nho nhỏ của mình, nơi đón tiếp mình từ lòng mẹ và cho mình những ấn tượng đầu tiên về thế giới. Hơn nữa, đó lại là một vùng đất hay được nhắc nhở và ngợi khen.

  • ĐỖ NAM Hàng trăm năm nay ai cũng biết đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có 02 cửa thông ra biển: Thuận An và Tư Hiền.

  • BÙI MINH ĐỨC (Tiếp theo Sông Hương số 267, tháng 5 - 2011)