Con người Phong Lê qua văn

08:56 26/12/2008
TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

Ngày còn ở chung khu tập thể với gia đình anh, khi anh đi công tác xa sắp về, chúng tôi cứ đưa mắt cho nhau mà cười khi thấy việc đầu tiên chuẩn bị đón “bố” (cách mà chị Vân thường dùng để gọi anh) là mấy mẹ con táo tác lên lau dọn cửa nhà. Hầu như chẳng mấy khi gặp anh ngồi nhậu lai rai nơi quán xá hay ở một restaurant sang trọng. Đến chơi nhà ai, dù thân, chẳng mấy khi anh ngồi thật lâu. Nằm viện, anh cũng ôm vào bao nhiêu là tài liệu, sách vở, để khi không có bác sĩ hay nhân viên y tế đi kiểm tra là anh tranh thủ viết. Một lần đi công tác vào Vinh, khi chúng tôi giở món “dưa lê” ra “buôn” thì thấy anh lẳng lặng lôi một tập bản thảo ra ngồi cắm cúi viết, dường như tách mình khỏi cuộc sống xung quanh mặc dù chúng tôi cố lôi anh vào chuyện. Nhiều lần đến chơi nhà hay vào phòng làm việc, thấy mặt anh bạc phếch nhưng vẫn lại ngồi vào bàn hí hoáy trên những trang bản thảo chi chít dấu dập xóa, chúng tôi can, anh chỉ cười: nếu bắt mình nghỉ thì chắc mình còn ốm hơn.

2. Có lẽ Phong Lê không nói quá. Tôi thấy anh tận dụng mọi thời gian để đọc, để viết. Và sức viết dường như ngày càng dẻo dai. Vượt qua cái hạn của một trận ốm thập tử nhất sinh hơn chục năm về trước, nhiều năm nay sức anh khá lên và dường như tuần nào, tháng nào anh cũng có bài, chí ít là bài báo ngắn. Nhưng nếu chỉ biết có cắm mặt trên “trang giấy trước đèn” thì dẫu “ra phố” năm chục năm rồi, nét chất phác của con người miền Trung vẫn còn lưu đậm ở anh dễ có cơ biến anh thành một người gàn. Ở Phong Lê, tuy chú mắt vào con chữ, trang sách hoặc trang bản thảo, nhưng anh vẫn nghe, vẫn dành tâm trí cho bè bạn, gia đình. Thời buổi kinh tế thị trường cái tình người không còn được mặn mà, đằm thắm như hồi bao cấp nhưng nhìn mối quan hệ của anh với đồng nghiệp các thế hệ trong cơ quan, đặc biệt với những người thuộc thế hệ đàn em, với học trò, nơi anh có ngót dăm chục năm công tác thì thấy không hẳn thế. Anh có sự cảm thông, chia sẻ với những ai có hoàn cảnh khó khăn và dành sự ưu ái cho những ai gặp điều không may mắn.

Căn phòng làm việc được cơ quan phân cho sau khi anh nghỉ quản lí, một thời gian dài là nơi “tá túc” cho nhiều nghiên cứu sinh tỉnh xa về không có điều kiện thuê nhà nghỉ gần thư viện mà lại cũng không muốn làm phiền đến họ hàng. Sự thân mật, xuề xòa trong ứng xử thường ngày đã tạo nên cảm giác dễ chịu cho những ai mới gặp. Nhiều mối quan hệ thân tình với đồng nghiệp không chỉ là chỗ dựa hàng ngày trong đời sống tinh thần mà thực tế đã đưa lại những cảm xúc tươi mới và hắt bóng lên nhiều trang sách của anh. Xưa nay cái khó của người làm văn học cổ là chỉ làm việc trên văn bản, nhưng cái dễ nhiều khi cũng lại nằm ở đó. Với văn học hiện đại, cái dễ nhưng cũng là cái khó cũng lại không chỉ làm việc ở trên văn bản bởi đằng sau mỗi tác phẩm là con người cụ thể của nhà văn với bao nhiêu buồn vui trong nghề viết, trong suy nghĩ, sinh hoạt của đời thường mà quan niệm và các mối quan hệ của nhà văn chắc chắn sẽ cho người nghiên cứu, phê bình văn học đương đại nhiều cơ hội để đi sâu hơn vào tác phẩm của họ. Vì vậy mà trải bấy nhiêu năm qua trong công việc, với bản tính nhiệt tình, quí mến và thông hiểu công việc lao động viết lách, anh đã có nhiều mối quan hệ thân tình với nhiều nhà văn và đồng nghiệp. Điều đó đã in dấu rất rõ trong Người trong văn - tập chân dung và tiểu luận do Nhà xuất bản Văn hóa Sài gòn mới phát hành. Người đọc đã cảm nhận được đằng sau những gì toát lên từ con chữ mà anh rút ra từ văn bản tác phẩm là cái tình người hồn hậu, là sự trân trọng mà từ một người vắt kiệt sức mình trong nghề, anh dành cho những người cũng một đời trần lực trên trang giấy với bao mong mỏi, khát khao... trong số đó không ít người kém may mắn, hoặc ra đi khi tài năng đang vào độ chín.

3. Phụ đề là Chân dung và tiểu luận nhưng nội dung cơ bản của tập sách vẫn là chân dung và trong chân dung có hàm tiểu luận. Với 30 bài với 31 tên người, có thể nói, diện bao quát về văn học hiện đại của Phong Lê là rộng. Và sâu. Anh viết về các nhà văn, nhà thơ. Anh viết về các nhà phê bình, nghiên cứu. Anh viết về các nhà dịch thuật. Có người là bậc đàn anh, là thủ trưởng một thời dìu dắt anh như Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông. Có người là thầy như Hoàng Như Mai, là đồng nghiệp như Hà Minh Đức, Ninh Viết Giao. Có những tên tuổi lớn như Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, “những người muôn năm cũ” như Vũ Đình Liên, hoặc gắn bó, gần gũi với anh một thời như Lê Khả Kế, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Trung Đức. Hai phần sách - hai mảng chân dung: phần I là các nhà văn, phần II là các nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, dịch thuật - mỗi chân dung đều được Phong Lê khắc họa một cách sắc nét vóc dáng, thần sắc của họ trong lao động nghệ thuật cũng như trong cuộc sống, đời thường. Điều toát lên ở mỗi chân dung là sự giản dị trong cuộc sống, là sự nỗ lực tìm tòi theo cách của mình để làm nên chính gương mặt riêng của mỗi người, cũng là đóng góp của họ trong nền văn học hiện đại. Cũng có thể nói rằng chính qua những gương mặt mà Phong Lê phác họa bằng kĩ năng và tâm thức của mình ta thấy được bóng dáng nhà phê bình nhưng cũng qua đây người đọc có thể có một cách hình dung về văn học hiện đại.

Tôi đã đọc Nguyên Hồng, đọc nhiều bài viết về ông, tôi từng tâm đắc với nhận xét của Nguyễn Minh Châu khi ông nói rằng “Nguyên Hồng là nhà văn của thập loại chúng sinh”, đã “từ trong lòng cái xã hội thập loại chúng sinh ấy bước ra cầm lấy cây bút sắt, chấm vào mồ hôi, máu và nước mắt của mình mà viết ra văn chương của riêng mình”; nhưng đọc Phong Lê, tôi cũng đồng cảm với nhận xét xác đáng của ông về nhà văn này: “Sống với những khổ đau của nhân vật đến có thể luôn luôn, lúc nào cũng có thể rưng rưng mà khóc vì họ, băn khoăn đến hốt hoảng vì họ, không ăn không ngủ được vì họ, như một người mẹ mang thai, có lẽ chỉ riêng Nguyên Hồng mới có”. Nhà văn đó chỉ có nỗi đam mê là “viết và viết. Viết từ trẻ đến già. Viết cả trong nhà tù và trong cái đói thường trực. Tựa như dốc cạn cuộc đời ra mà viết. Tựa như vắt kiệt mình ra mà viết. Viết với tất cả tín niệm thiêng liêng cao cả của nghề. Không viết không sống nổi”. Tôi đọc Võ Quảng - một đời văn cho thiếu nhi với sự xúc động sâu sắc khi hình dung ra trước mắt cảnh sống cô đơn, vắng lặng, không mấy tiện nghi ở cái tuổi ngoài tám mươi, trong buổi chiều ba mươi Tết của nhà văn khi vợ ông nằm viện, một mình ở nhà, ông mở đài ra nghe nhưng không biết tắt; và cùng Phong Lê điểm lại những trang viết chứa chan tình người tình đời, những trang văn mà theo anh là “rồi sẽ trở thành hành trang tinh thần cho lớp lớp thế hệ tuổi thơ” của ông - một con người cần mẫn, lặng lẽ trong cuộc đời lao động sáng tạo của mình.

Trong khuôn khổ của hai kì báo Văn nghệ, Phong Lê đã có một cách thể hiện chân dung Ma Văn Kháng với những đóng góp đặc sắc, sự lao động bền bỉ và thuộc trong số những người đứng ở vị tí tiền tiêu của công cuộc đổi mới. Đó là những trang viết của một người không chỉ đọc kĩ các sáng tác rồi đặt nó vào bối cảnh chung mà cân nhắc, mà những trang viết ấy Phong Lê còn kết hợp được trong đó con người và tính cách Ma Văn Kháng mà anh nhìn ra, cảm thấy trong hàng ngày khi giữa nhà văn và anh có mối tình cảm thân thiết tự bao nhiêu năm nay, thuở hai gia đình đều có chung niềm vui được phân nhà ở khu tập thể Thành Công. Văn và người, văn và đời còn hòa quyện làm nên sự tươi mát, thấu tình, những trang văn không nặng chất hàn lâm khi viết về Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng... Đó là những nhà văn mà hơn một lần anh có bài viết về họ nhưng mỗi lần họ lại được anh soi chiếu ở những góc khác nhau và càng về sau chân dung các nhà văn này càng trở nên cụ thể, gần gũi. Các nhà phê bình thường chọn tiêu điểm ở tác phẩm để từ đó triển khai vấn đề. Nhất quán trong logic cấu trúc, nhưng có bài viết vẫn gợn cho người đọc cảm thấy nó có điều gì đó hơi “nghề”. Trong các viết trước đây, lắm khi Phong Lê cũng có làm văn. Nhưng ở tập sách này, nhất là những bài viết trong khoảng thời gian dăm mười năm trở lại đây, đọc anh thấy dường như anh đã hóa thân vào tác phẩm, sống với nỗi đau trở dạ của nhà văn, của những lao động nhọc nhằn; đồng cảm hơn với những bất hạnh, rủi ro do tai nạn nghề nghiệp hay số phận đưa lại cho nhà văn.

Bài viết Ở tuổi 85 nhà nghiên cứu và lí luận Vũ Đức Phúc Phong Lê đã cho độc giả hiểu hơn con người ông “một người, cho đến bây giờ vẫn là người bị mang tiếng là “thích sát phạt”, là “lính gác” nhưng đó là một con người “dứt khoát đến rạch ròi trong tranh luận”, “người có chính kiến, cũng là người không định kiến”, lành, “là người thẳng thắn, trung hậu không có thù dai, không hay để bụng”, “không lựa đón, không quay quắt”. Lời thanh minh ấy, tôi nghĩ là chân thành, nghiêm túc vì anh là người cộng tác gần gũi với GS Vũ Đức Phúc nhiều năm, chắc chắn không ít lần anh đã chịu những cơn nóng lạnh thất thường của ông. Và tôi biết đó cũng là suy nghĩ, tình cảm của riêng tôi và nhiều người khác trước đây từng làm việc với ông nhưng chưa có dịp nói ra. Với Lặng lẽ chân dung Lê Khả Kế Phong Lê đã phác thảo hình ảnh một nhà khoa học thực tài, thực tâm: “yên lặng, ít nói, một chút cô đơn, không muốn làm phiền ai”... Bài viết với số trang không nhiều nhưng chân dung một con người nhẫn nhịn trong ứng xử, miệt mài rất đáng kính trọng trong công việc và cô đơn trong cảnh già hiện ra trước mắt ta đầy thương cảm. Tạ Quang Bửu, Nguyễn Khắc Viện, Quang Dũng, Nguyễn Mạnh Hào với những nỗ lực phi thường để vượt lên sự xô đẩy của hoàn cảnh, vượt lên những rủi ro của số phận đã thành nơi Phong Lê muốn gián tiếp thắp sáng lòng tin cho những ai còn yếm thế, chưa đủ sức vươn lên. Trong những bài viết về Đặng Thai Mai, Hoàng Trung Thông, Hà Minh Đức, Ninh Viết Giao, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Trung Đức... Phong Lê đều nêu bật lên được những đóng góp đặc sắc của họ, và các phác thảo chân dung này trở nên sinh động hơn khi ông lồng ghép vào đó bao kỉ niệm của tình đồng nghiệp, đồng hương, của tình người khiến người đọc có cảm giác rằng càng trải nghiệm theo tháng năm, dường như cái tình đó trong anh càng đằm thắm. Qua văn để hiểu người và qua người càng hiểu văn hơn. Đó là cảm giác rõ nhất khi đọc tập chân dung và tiểu luận này.

4. Phong Lê đã có ngót năm mươi năm “sống với thời gian hai chiều” (như cách nói của Vũ Tú Nam) trong văn chương của nước nhà thế kỉ XX, từ buổi đầu của công cuộc hiện đại hóa đến những thập niên cuối đầy vật vã, tìm tòi, quẫy cựa trong việc thoát ra khỏi một thói quen, một cơ chế để đưa văn chương hội nhập với thế giới. Đổi mới mình trong nghiên cứu, phê bình cũng là góp phần vào đổi mới diện mạo văn học. Hành trình của Phong Lê đã cho thấy điều đó. Và Người trong văn là một trong những biểu hiện sinh động cái lực, cái tâm của anh với văn chương và con người vào cái tuổi gần thất thập. Ở đây ngoài tiếng nói tri âm, tri kỉ, ta còn thấy cả tấm lòng biết ơn của anh đối với những gương mặt anh xiết bao yêu mến, kính trọng mà tấm lòng ấy sẽ còn được anh tiếp tục trong thời gian tới với những nhà văn mà anh tìm thấy sự đồng cảm từ trong trang viết, từ cuộc sống đời thường như anh tâm sự trong lời nói đầu của cuốn sách.
 Quan Nhân nửa đầu tháng 7 - 2006
T.P.L

(nguồn: TCSH số 211 - 09 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.

  • PHẠM THỊ LYTôi viết những dòng này vì biết rằng giáo sư Cao Xuân Hạo sẽ không bao giờ trả lời bài viết của một tác giả như anh Phạm Quang Trung và những gì mà anh đã nêu ra trong bài "Thư ngỏ gửi Giáo sư Cao Xuân Hạo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 155, tháng 1-2002.

  • LÝ HOÀI THU“Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương” ( *) (nguyên bản: Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình) là tác phẩm hồi ký của bà Trần Kiếm Qua viết về lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn và đại gia đình Trung Việt của ông. Bằng sức cảm hoá của những dòng hồi ức chân thực, tác phẩm của phu nhân tướng quân đã thực sự gây xúc động mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Việt .

  • NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Người tình là một cuốn tiểu thuyết hiện đại nổi tiếng của M.Duras. Tác phẩm đoạt giải Goncourt 1984, và đã từng gây một làn sóng xôn xao trong dư luận. Người tình được tái bản nhiều lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tác phẩm cũng đã được chuyển thành kịch bản phim 1992 (qua đạo diễn Jean-Jacques Annaud).

  • ĐÀO NGỌC CHƯƠNGCho đến nay những ý kiến về phương diện thể loại của tác phẩm Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử vẫn chưa thống nhất. Theo Trần Thanh Mại, đó là bài văn xuôi: “Nay xin đơn cử ra đây một vài đoạn của một bài văn xuôi của Hàn để chứng tỏ thêm cái sức cảm thụ vô cùng mãnh liệt ở nơi nhà thơ lạ lùng ấy.