(SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”
Tô cơm hến Huế
Đó là những câu thơ của một thi sĩ khi đến Huế đã có những ấn tượng khó phai về món ăn dân gian ở nơi đây. Nói đến Huế người ta thường nghĩ ngay đến những kiến trúc lăng tẩm, thành quách uy nghi, cổ kính mà ít ai nghĩ đến sự nổi tiếng về văn hóa ẩm thực độc đáo. Mỗi món ăn Huế là cả một kho tàng về lối ẩm thực phong phú, thanh tao như tâm hồn người Huế. Món ăn Huế giản dị, phong phú, mang hương vị đằm thắm của sản phẩm nơi đồng ruộng, đầm phá, núi sông đất cố đô. Song, khó có một món ăn nào vừa giản dị mộc mạc, thanh đạm nhưng lại chứa đậm chất Huế như là cơm hến.
Cơm hến là món ăn dân dã có khắp mọi nơi dù ở thôn xóm hay đường quê. Hến được xúc dưới sông lên, ngâm lại nước gạo một thời gian, rửa sạch, đem luộc đến lúc vỏ hến rã ra hết, lấy nước sau khi đã lắng đọng, dùng rá sàng lọc lấy thịt hến. Thịt hến và nước hến là hai vị chính của món cơm hến.
Hến ở Huế, ngon nhất là hến Cồn. Nước trong vắt, ít phù sa và chất phèn của sông Hương đã chảy qua nơi này. Dưới đáy sông lại có một lớp bùn sâu tích tụ nên rất thích hợp cho loài hến sinh sôi, nảy nở. Có lẽ nhờ vậy mà hến ở cồn Hến nổi tiếng ngon nhất xứ Huế.
Nước luộc hến được múc ra từ chiếc nồi bung bốc khói nghi ngút bằng chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho vào đầy một cái tô đã có đủ cơm nguội, hến xào, rau sống và được gia thêm đủ vị đồ màu. Nước hến có giã thêm gừng, màu trắng đùng đục.
Bộ đồ màu của cơm hến gồm 10 vị: ớt tương, ớt màu, ruốc sống, bánh tráng nướng bóp vụn, muối rang, hạt đậu phộng rang mỡ giã hơi thô thô, mè rang, da heo rang giòn, tóp mỡ, bột ngọt. Rau sống ăn kèm là sự trộn lẫn của đủ loại rau: thân và bắp chuối, môn bạc hà, khế, rau thơm… Tất cả đều được xắt nhỏ, mỏng thành từng sợi rất khéo léo. Một điều đáng lưu ý là, tất cả gia vị, rau hành, hến, cơm đều để nguội, nhưng nước hến luôn luôn được giữ nóng nhờ bếp lửa hồng. Cơm hến thường được ăn với ớt thật cay mới đúng vị. Bên cạnh đó, người Huế còn sáng tạo thêm bún hến, mì hến để chiều lòng thực khách với cách làm, cách ăn như hệt cơm hến. Món ăn bình dị mà chứa đựng bao kỳ công của người chế biến.
Bát cơm hến với những con hến nhỏ li ti được nêm nếm tỉ mẩn như chắt chiu những gì mộc mạc nhất của Huế. Chính cái mộc mạc, bình dị đó đã gợi nhớ, gợi thương cho bất kỳ ai đã từng đặt chân đến xứ Huế. Thế nên người Huế thường bảo “đến Huế phải thưởng thức món cơm hến, mới đúng là đã trải lòng với Huế”. Đặc biệt là những sinh viên ngoại tỉnh rất thích cơm hến và chọn nó làm món ăn khoái khẩu của mình. Bởi sự bình dân, các bạn có thể bắt gặp và thưởng thức món ăn này ở bất kì quán ăn vỉa hè nào và bởi giá rẻ.
Theo một điều tra thú vị của nhóm sinh viên Việt Nam Học k7 – Trường Đại học Ngoại Ngữ Huế khi tìm hiểu “Thái đội đối với Ẩm thực dân gian
của sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ Huế, 2012” đã cho thấy: Các bạn có thể thưởng thức những món ăn dân gian (trong đó có cơm hến) ở mọi nơi, mọi chỗ nếu thấy tiện chiếm 31,5% . Ý kiến này phổ biến bởi chỗ nào thấy tiện cho thời gian, cho công việc và túi tiền thì các bạn trẻ chọn. Vỉa hè là nơi mà 23.5% các bạn chọn, đây là nơi mà các bạn sinh viên thường xuất hiện vì nó mang đậm chất bình dân, phù hợp để bày bán những món ăn dân gian Huế. Có 22.5% các bạn chọn tùy thời điểm để thưởng thức ẩm thực DG Huế, điều này cũng khá phổ biến bởi tùy từng đối tượng và lý do mà người ăn chọn địa điểm. Chẳng hạn như, khi ta đi ăn với mục đích để bàn công việc thì địa điểm phải sang trọng hơn, lịch sự hơn khi đi vui chơi, tán gẫu với bạn. 21% các bạn chon địa điểm ăn là những quán bình dân, các bạn sinh viên thường tiêu tiền tiết kiệm hơn so với những tầng lớp khác nên việc chọn các quán bình dân - nơi mà giá cả vừa phải, chất lượng vệ sinh cũng khá tốt là điều hiển nhiên. Cuối cùng 1.5% các bạn chọn địa điểm là nhà hàng, địa điểm này đúng là xa xỉ với sinh viên vì các bạn chưa làm ra tiền, chi tiêu còn phụ thuộc quá lớn vào việc gia đình chu cấp. Thế mà, cũng có một số lượng khá khá khách du lịch nước ngoài khi đến nhà hàng họ lại hỏi: Nhà hàng có món cơm hến không?. Điều này chứng tỏ, cơm hến không chỉ có sức hấp dẫn đối với các bạn sinh viên mà nó còn gợi trí tò mò cho mỗi thực khách khi đến Huế. Bởi không hiểu cơm hến có gì ngon mà ai ai cũng ăn.
Món ăn dân gian Huế được bán ở nhiều nơi với giá cả có thể gọi là rẻ nếu so với các món ăn ở những tỉnh thành khác, vì vậy nhìn biểu đồ trên ta thấy sinh viên có thể thưởng thức các món ăn dân gian Huế ở vỉa hè, các quán ăn bình dân và tùy thời điểm mà chọn địa điểm thưởng thức. Nhưng thưởng thức ở nhà hàng không phổ biến có lẽ giá cao không phù hợp với túi tiền của họ. Qua đó thấy được mức độ phổ biến của các món ăn dân gian Huế này chủ yếu là ở những nơi dân dã, bình dân và phù hợp với tất cả mọi người.
Nhận thấy rằng, việc khai thác ẩm thực Huế nhằm mang lại lợi ích lớn hơn cho cộng đồng, đưa Huế xứng tầm là trung tâm du lịch đặc sắc của Việt Nam và là điểm đến lý tưởng của du khách trong và ngoài nước là mục đích hướng tới trong chiến lược phát triển của ngành du lịch Thừa Thiên - Huế. Hiện tại, trên địa bàn toàn tỉnh Thừa Thiên - Huế có hàng trăm đơn vị kinh doanh du lịch, với 535 cơ sở lưu trú, trong đó có 200 khách sạn, đều chú trọng khai thác thế mạnh về ẩm thực Huế để phát triển du lịch. Năm 2012, với nhiều hoạt động của Năm Du lịch Quốc gia Duyên hải Bắc Trung Bộ, Thừa Thiên - Huế phấn đấu đón từ 2 đến 2,5 triệu lượt khách du lịch, trong đó khách quốc tế đạt từ 1,2 đến 1,5 triệu lượt, doanh thu đạt từ 2.500 đến 3.000 tỷ đồng. 7 tháng đầu năm 2012, Thừa Thiên - Huế đã đón gần 1,1 triệu lượt khách du lịch, tăng 9,9%; doanh thu của các cơ sở lưu trú đạt 749,4.
Tuy nhiên, việc khai thác chưa đúng mức đã gây khó khăn cho quá trình đưa ẩm thực dân gian đến với khách du lịch trong và ngoài nước, làm cho chất lượng cũng như cách nhìn nhận của du khách đối với hệ ẩm thực này có phần hạn chế. Nhìn chung ẩm thực dân gian có những nét cơ bản của văn hóa ẩm thực Việt: tính cộng đồng, triết lý âm - dương, tính tổng hợp… Ẩm thực dân gian chưa được đưa vào phục vụ ở các nhà hàng, khách sạn, chủ yếu chỉ được bày bán ở hàng quán bình thường, thậm chí ở chợ. Điều đó khiến cho ẩm thực dân gian phổ biến, nhưng lý do vệ sinh khiến cho nhiều thực khách e ngại. Việc xây dựng hệ thống các nhà hàng, khách sạn có phục vụ những món thuộc ẩm thực dân gian là rất cần thiết, nó thể hiện được sự đề cao hệ ẩm thực này và giúp thực khách dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm các món ăn thuộc hệ ẩm thực dân gian, thực khách cũng không lo ngại về chất lượng món ăn và chất lượng vệ sinh như khi bày bán ở vỉa hè, ở chợ hoặc ở những quán ăn bình dân như ta thường thấy.
Ngoài ra, ẩm thực dân gian chưa đưa vào khai thác đúng mức ở các dịp lễ và hội ở Huế, mọi người chỉ chú trọng vào ẩm thực cung đình mà quên đi ẩm thực dân gian cũng là một phần của sự đa dạng mang tên “Ẩm thực Huế”. Chưa có một cuộc thi hoặc những diễn đàn chuyên viết về ẩm thực dân gian để mọi người trên khắp cả nước biết đến ẩm thực dân gian Huế, để có cách nhìn nhận cụ thể và chi tiết hơn về loại hình ẩm thực này. Việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về ẩm thực Huế nói chung và ẩm thực dân gian Huế nói riêng là đều rất cần thiết. Bởi một mảnh đất du lịch thì việc tăng cường hiểu biết cho giới trẻ, những chủ nhân tương lai sau này của đất nước là điều quan trọng, đặc biệt trong việc bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa này. Góp phần thu hút ngày càng nhiều hơn số lượng khách du lịch đến Huế hàng năm, để giữ chân du khách ở lại với Huế được lâu hơn. Hi vọng rằng, vào một tương lai không xa cơm hến - ẩm thực dân gian Huế có thể trở thành “di sản văn hóa” của nhân loại.
Lê Thị Mộng Tuyền
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.