ĐẶNG ANH ĐÀO
Đã từng có một cô gái Huế trong thơ, có lẽ không một địa phương nào, đặc biệt là chốn đô thị kinh kỳ nào lại có thể in hình người phụ nữ của mình vào thơ đậm đến thế.
Ảnh: internet
Đây là một hiện tượng đặc biệt mà cho tới nay ta chưa lý giải. Hình ảnh “Cô gái Huế” có lúc được sưu tầm lại hẳn thành một tập thơ về những cô gái Huế, mà gốc tích của họ đã được các tác giả xác nhận.
Dường như chỉ cần gọi tên nàng lên, là thế giới của Đẹp và Thơ đã xuất hiện “Học trò xứ Quảng ra thi - Thấy cô gái Huế chân đi không đành”. Câu thơ dân gian đã chứa đựng một nét nghệ thuật khá quen thuộc: ở nhiều bài thơ khi nói đến cô gái Huế, rất ít khi nàng được miêu tả trực diện. Có thể vì cách biểu hiện ấy thích hợp với phong cách cô gái Huế chăng? Điều lạ lùng là tuy được gợi lên qua bao nét bút khác nhau, nhưng chúng ta vẫn giữ được một ấn tượng chung về cô gái Huế.
Có thể do tính chất cô đọng, ước lệ, qui phạm, mã hóa và khả năng bảo tồn tiếng nói dân tộc qua ngôn từ nên thơ đã bảo tồn lại cho ta chân dung, phong cách của con người và cái hồn dân tộc.
Trước hết, đó là một màu áo. Đoàn Phú Tứ giải thích sắc Huế của bài Màu thời gian là do câu “Màu thời gian tím ngát”. Nhưng điều đáng lưu ý là thơ lại thường giữ lại màu trắng ở tà áo cô gái Huế chứ không phải cái màu đã được gọi là “tím Huế” ấy. Huy Cận xếp bài thơ Áo trắng vào tập thơ về Huế, còn Nguyễn Bá Trạc ở tận California nhớ về Huế cho tới bây giờ vẫn gợi lại “…bọn học trò áo trắng mùa thu”, cũng như Nguyễn Duy vào những thập kỷ này vẫn khắc khoải:
Tôi về xứ Huế mưa sa
Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa
Tôi về xứ Huế chiều mưa
Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu (1)
Một màu áo, và cùng một vẻ đẹp. Có lẽ không ai tả màu áo trắng và vẻ đẹp của cô gái Huế độc đáo bằng Hàn Mặc Tử, có thể bởi vậy, mà hình ảnh của thơ ông (thôn Vĩ) đã làm tiêu đề cho cả một tập thơ về Huế. Một gương mặt nhìn không rõ, cả tà áo cũng vậy, thế mà tất cả bóng hình của cô gái Huế đã hiển hiện:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(…)
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Tà áo trắng ấy huyền ảo tới mức không còn sắc màu khi Hàn Mặc Tử mộng thấy nàng Thương Thương, người tình chưa từng gặp “Bàn tay mềm mại nên thơ quá - Tà áo lung linh dày tợ sương”… Còn đoạn thơ trên là để tặng một người đẹp có tên thật và đã giáp mặt ! Gương mặt thấp thoáng sau cây lá kia tiêu biểu cho một vẻ đẹp của cô gái Việt Nam cổ xưa, chẳng phải chỉ vì "lá trúc che ngang"... Tôi ngờ rằng ngày nay ta chỉ còn ca ngợi vẻ đẹp của khuôn mặt trái xoan, chứ nét trên thì không thấy. Hàn Mặc Tử đã tạo cho ta một khuôn mặt độc đáo có lẽ vẻ đẹp của gương "mặt chữ điền" đặc biệt phù hợp với khăn vành giây mà quê hương của nó chính là chốn cố đô. Một cô gái bới tóc trễ như trong tranh của Tô Ngọc Vân phải có một gương mặt trái xoan.
Một tà áo, một gương mặt, một bóng dáng, nhòa phai, duyên nhiều hơn là đẹp. Cái vẻ “nhìn không ra”, “mờ nhân ảnh” ấy được lặp lại ở tất cả những bức tranh về cô gái Huế. Tố Hữu nói đến “Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng - Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai” đã ghi lại một nét duyên của cô gái Huế chiếc nón khiến ta nhìn không rõ mặt. Có ai cười như cô gái Huế? Nữ sĩ Quỳnh Dao còn lại được với ngày nay có lẽ chỉ do một câu thơ:
Một hàng Tôn nữ cười trong nón…
E lệ, bởi vì cổ kính. Muốn tìm vẻ đẹp của Thị Bằng, của giai nhân cố đô, nhà thơ chỉ có cách:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Bởi thế, có lẽ không nên lấy lập trường giai cấp ra để trách một số nhà thơ, hễ tả Huế lại cứ mường tượng những cái thời:
Ngày xưa không lạnh nữa, Tần phi
…
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
(Đoàn Phú Tứ)
Hoặc:
Gió cầu vương áo nàng Tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ
…Mơ mộng giai nhân buông mắt nhìn
Lâu đài cung điện bóng in xa…
(Đông Hồ)
Và:
Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen
(Nguyễn Bính)
Có thể gọi đó là những ước lệ, những “mã” về xứ Huế nhiều hơn là tư tưởng. Cái buồn, đó cũng là một hình ảnh của Huế đã mã hóa. Bởi thế, dù là giai nhân, cung tần, mỹ nữ, “gái hộ lăng”, vóc dáng của họ từ ấy đã tạc trên nền của một dòng sông, một bầu trời, một mùa thu và những ngày “mưa ở xứ Huế sao buồn thế”… (vẫn Nguyễn Bính). Có lẽ thơ tả cô gái Huế cười, chỉ còn lại một câu thơ của Quỳnh Dao nói trên, mà thực ra đó là nét duyên hơn là nét vui. Niềm hân hoan ở cuối bài Cô gái sông Hương của Tố Hữu mãi mãi là một viễn cảnh, bởi từ đấy không có bài thơ nào nổi tiếng về niềm vui của cô gái Huế. Đến cả bóng dáng người con gái lao động cũng đơn côi:
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
(Hàn Mặc Tử)
Bởi người con gái ấy là một số phận. Trong thơ Lưu Trọng Lư, người tình xưa là một cô gái Huế “nằm trong nhung lụa”, theo như giai thoại, người ta còn nói rằng tên nàng trùng với tên bông hoa của mùa thu (Giống như Hoàng Cúc của Hàn Mặc Tử). Song “tiếng thu” cũng là một khúc nhạc buồn, và “gái trong song cửa” cũng vẫn chỉ là “Người em sầu mộng của muôn đời”. Con thuyền - một hình tượng gần như ước lệ gắn với cô gái Huế - lại cũng là một biểu tượng của số phận, từ thời ca dao:
Thuyền về Đại Lược,
noốc(2) ngược Kim Luông
Đây là ngả rẽ của đôi dòng…
Bởi thế nên dù là tần phi, tôn nữ hay người lao động thì số phận của họ cũng được biểu tượng qua những mã chung với “người kỹ nữ” con thuyền, dòng sông, khúc hát và cả vầng trăng nữa. Xuân Diệu dệt bởi tất cả những gì đã bắt đầu từ ca dao đến Thơ Mới với Lời Kỹ Nữ đã làm bất tử hình ảnh nàng, nâng thành biểu tượng:
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt
Người con gái sông Hương đó là một khúc ca đứt đoạn “Vì nghe nương tử trong câu hát - Đã chết đêm rằm theo nước xanh”… Đến đây chúng ta hiểu được vì sao cô gái Huế lại là thơ: bởi nàng là nhạc. Song thể hiện nàng bằng âm thanh, có lẽ phải nhờ nhạc sĩ Văn Cao với hai câu thơ toàn vần bằng êm dịu kết hợp với giọng nói Huế, mà nhịp phách là canh trời điểm bằng sao rơi:
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
…
Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà
Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
Từng canh trời điểm một sao rơi
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi
Số phận của người suốt đời là “con gái” quả không có gì vui song không phải chỉ có người kỹ nữ phải mang cái bệnh cô đơn ấy. Những “gái hộ lăng” một hình tượng Huế - may mắn thay giờ không còn nữa - nhờ nhà thơ Xuân Tâm mà vận mệnh của họ được ghi lại. Những người… “trải qua hai thế kỷ - sóng thời gian gội tóc bạc phau phau” vẫn cứ là trinh nữ.
…Để đêm đông lạnh buốt đơn hương lửa
Đến ngày lầu son nát trước lòng son
Cô gái Huế, đâu có phải chỉ là áo trắng, nón bài thơ… Họa chăng người ở Đàng ngoài mới tưởng rằng:
Chỉ thiếu chiếc kiềng vàng
Con thành “cô gái Huế”
(Nguyễn Thị Thiếu Anh)
Cho đến trong ký ức, nơi quê mẹ gắn với tuổi nhỏ, hình ảnh cô gái Huế mới lớn qua thơ Nguyễn Bá Trạc vào những thập kỷ này vẫn cứ phảng phất buồn:
Chao ơi, cơn gió mùa đông cũ
Còn thổi mưa lên mấy cửa thành
Vườn nhà ông ngoại thơm hoa bưởi
Khi tóc em vừa mới chớm xanh
Như vậy, cả nỗi buồn nữa, cũng là một cái “mã” của Huế. Ta hiểu được vì sao hình ảnh cô gái Huế đậm nét nhất chính là trong thơ trước 1945. Vả chăng, có hai điều kiện khiến thơ ca ngày nay không còn ghi lại hình ảnh cô gái Huế trước hết là lối sống có phần giống hệt nhau giữa các địa phương ở Việt Nam sau 1975. Còn một điều kiện thứ hai có thể chưa rõ nét ở Việt Nam, song cũng sẽ tất yếu góp phần xóa mờ màu sắc địa phương: lối sống ở xã hội công nghiệp. Những siêu chợ, những phương tiện thông tin đại chúng sẽ khiến ngay cả thị hiếu, thời trang cũng xích lại gần nhau: Ngày nay, mọi cô gái đều diện quần bò, áo phông… Thơ ca, với những mã của nó - mà chốn cố đô chính là nơi được quy phạm, được ước lệ, được mã hóa rõ rệt nhất - sẽ bảo tồn, mãi mãi vẻ đẹp và nỗi buồn của thời xưa một đi không trở lại.
Đ.A.Đ
(TCSH44/01-1991)
--------------------
(1) Ở đây xin miễn chú thích xuất xứ bài thơ để khỏi làm dứt mạch cảm hứng thơ.
(2) Tiếng Huế, cũng có nghĩa là thuyền.
YẾN THANH
Mất gần sáu năm, từ khi còn đang là một nhà phê bình trẻ đầy xông xáo trên văn đàn, cho đến khi trở thành một người có thẩm quyền và uy tín trong lĩnh vực của mình, bạn đọc yêu mến nhà phê bình Đoàn Ánh Dương mới lại được hội ngộ anh qua một chuyên luận nghiên cứu văn học.
NGUYỄN QUANG HUY
NGUYỄN MẠNH TIẾN
PHƯỚC CHÂU
Phan Du không chỉ là cây bút truyện ngắn thời danh ở các đô thị miền Nam trước năm 1975, mà còn là nhà biên khảo lịch sử thông qua cảm quan của một nhà văn, được bạn đọc một thời yêu thích.
ĐINH THỊ TRANG
Trâu là một trong những vật nuôi gần gũi với con người. Chúng được thuần hóa rất sớm (cách nay khoảng 6.000 năm). Trâu hiện diện trong đời sống lao động vật chất cho đến đời sống tinh thần của người dân. Tùy theo các nền văn hóa mà chúng có sự ưu ái và địa vị khác nhau.
PHAN VĂN VĨNH
Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn, nhà nghiên cứu lý luận, nhà phê bình văn học nghệ thuật hiện đại thế kỷ XX. Ông tên thật là Phan Ngọc Hoan (ghi trong gia phả là Phan Ngọc Hoan Châu), sinh năm 1920. Quê làng An Xuân, xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị; ngày xưa làng An Xuân thuộc tổng An Lạc, huyện Võ Xương, phủ Triệu Phong.
HỒ THẾ HÀ
Từ những năm 30 của thế kỷ XX, Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (1908 - 1954) được xem là nhà báo, nhà lý luận phê bình văn học tiên phong và xuất sắc.
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Tương thông trực tiếp với thế giới phương Tây, văn học ở Nam Việt Nam có sự gắn bó chặt chẽ với những biến chuyển của văn hóa và văn học Âu Mỹ.
TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT
VŨ HIỆP
Quá trình di cư và định cư, sự thích ứng với thổ nhưỡng và môi trường sinh thái, những biến cố và lựa chọn lịch sử, di truyền sinh học và văn hóa... đã tạo nên những đặc tính nghệ thuật khác nhau được lưu truyền ở các dân tộc. Hiện tượng đó có thể gọi là Mã gien nghệ thuật.
HỒ THẾ HÀ
Yến Lan là nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Ông sinh ra, lớn lên, học tập và làm thơ trên vùng đất cũ thành Đồ Bàn, thuộc làng An Ngãi, phủ An Nhơn. Ông là một trong những thành viên nòng cốt của nhóm thơ Bình Định.
PHẠM PHÚ PHONG
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh là vị thầy khả kính của nhiều thế hệ học trò, trong đó có tôi. Ông là nhà giáo, nhà lý luận, phê bình nổi tiếng, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu được bạn đọc cả nước chú ý.
PHẠM XUÂN PHỤNG
Trong một lần gặp mặt toàn thể hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, nhà giáo - nhà văn - dịch giả Bửu Ý có nêu một gợi ý: Từ điển Tiếng Huế thì bác sĩ Bùi Minh Đức đã thực hiện.
PHONG LÊ
Lý luận văn học mác xít xác định mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống trong mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, xem văn học là tấm gương phản ánh đời sống; có đời sống mới có văn học.
NGUYỄN DƯ
Trong kho tàng thi ca Việt Nam chỉ thấy độc nhất một bài tả Hội Tây thời Pháp thuộc. Đó là bài Hội Tây của Nguyễn Khuyến.
THÁI PHAN VÀNG ANH
Trong tiểu thuyết Khải huyền muộn, Nguyễn Việt Hà từng giễu kiểu người sính chức danh với cacvidit dài dằng dặc những nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà nghệ thuật học…, rằng: “nhiều nhà như thế đáng nhẽ phải gọi là phố”.
PHAN NGỌC
Tôi kể dưới đây những điều mắt thấy tai nghe. Nó là bình thường đối với thế hệ những người 65 tuổi trở lên nhưng có thể có ích đối với các bạn trẻ mà giai đoạn này đã diễn ra trước khi các bạn ra đời. Cho phép tôi nói một vài sự kiện có tính chất tiểu sử mặc dầu tôi không xem việc kể chuyện gia đình là quan trọng.