VÕ QUÊ
Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian” là công trình nghiên cứu thứ ba của nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh do Nhà xuất bản Đại học Huế cấp giấy phép, tiếp theo 2 ấn bản “Dấu tích văn hóa thời Nguyễn” (in năm 1996 và 2 lần tái bản có bổ sung năm 1998, 2000); “Giữ hồn cho Huế” (2006).
“Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian” gồm 19 tham luận của nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh trong những lần ông được mời tham gia các hội thảo khoa học ở trong nước và quốc tế, tiếp tục khẳng định sự cống hiến không ngưng nghỉ trong công cuộc chung vì xứ Huế. Điều ấy phản ảnh rõ nét trong bài viết của nhà nghiên cứu văn hóa Huế Trần Thanh, một người bạn chí cốt của tác giả Hồ Vĩnh: “Nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh sinh ngày 15/11/1959 tại phường Vĩnh An, Thành nội Huế, nay là phường Thuận Lộc, thành phố Huế; nguyên quán làng Vĩnh Xương, xã Điền Môn, huyện Phong Điền. Sau khi tốt nghiệp trường Trung học phổ thông Gia Hội, anh theo học lớp Đại học Báo chí thuộc Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền Hà Nội). Với các bút hiệu Dĩnh Quốc Anh, Quốc Anh hoặc ký tên thật là Hồ Vĩnh, từ năm 1989, anh đã bước chân vào nghề báo và tham gia cộng tác với nhiều tờ báo, tạp chí như Báo Lao Động, Tạp chí Sông Hương, Huế Xưa & Nay, Kiến thức Ngày nay, Báo Thừa Thiên Huế, Tập san Nghiên Cứu Huế v.v… Trong làng báo Hồ Vĩnh là một cây bút chuyên viết phóng sự về đề tài di sản văn hóa trong mối quan hệ với các vấn đề của cuộc sống đương đại và trong cái nhìn đa diện về xã hội và con người qua lăng kính thời gian. Anh đã vinh dự được Hội Nhà báo tỉnh Thừa Thiên Huế trao hai giải thưởng (1994, 1995), được nhận tặng thưởng về tác phẩm hay trên Tạp chí Sông Hương (1994), của Tạp chí Huế Xưa & Nay (1999). Một số bài phóng sự hay của ảnh đã được chọn in trong nhiều tập sách như tập phóng sự “Đôi nét miền Trung”, Nxb. Hội Nhà văn (1996.) Không chỉ viết phóng sự, anh còn tham gia viết kịch bản phim tài liệu cho Đài Truyền hình Huế như các phim “Bia đá cho đời” (1999), “Những người giữ bóng thời gian” (2001) v.v.
Điều đặc biệt ở Hồ Vĩnh là bên cạnh công việc viết báo, anh còn có thêm một sự nghiệp khác ở trên lĩnh vực sử học và nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế. Từ lúc còn niên thiếu, anh may mắn được thân phụ là cụ Hồ Quýnh, một người am tường tinh thông kinh sách dịch lý Nho gia tận tâm dìu dắt, dạy bảo về vốn cổ văn hóa dân tộc, cộng với sự nhiệt tình ham mê học hỏi, tự tìm tòi nghiên cứu nên anh đã tích lũy được nhiều kiến thức và tự nguyện dấn thân vào công việc tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử dân tộc và lịch sử văn hóa Huế bằng cả tấm lòng đầy nhiệt huyết và tình yêu say đắm. Anh thuộc lớp hội viên đầu tiên của Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế năm 1994, là thành viên sáng lập nhóm nghiên cứu Đan Dương năm 2017”.
Khác với một số nhà nghiên cứu văn hóa Huế thường chỉ chú trọng vào nguồn tư liệu sách báo, ấn phẩm được lưu hành, gìn giữ trong các thư viện, tủ sách gia đình… nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh thực hiện nhiều chuyến đi khảo sát điền dã hữu ích ông đến những di tích lịch sử có nguy cơ chìm khuất để xác minh, góp phần phục dựng những giá trị văn hóa của cảnh quan, chứng tích. Hiện nay anh là thành viên sáng lập Hội Nghiên cứu và phát triển di sản Văn hóa Huế năm 2020.
Cũng từ phong cách nghiên cứu điền dã, trực tiếp thâm nhập thực địa, phỏng vấn các nhân chứng mà anh đã thu thập, lưu giữ được nhiều tư liệu quý báu, độc đáo. Hiện nay, nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh được xem là người có bộ sưu tập tài liệu quý giá về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, bộ sưu tập tư liệu về giáo dục với mong muốn đóng góp vào Bảo tàng Giáo dục Huế sau này. Nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh không những lưu giữ, bảo tồn mà bằng tấm lòng tha thiết yêu các di sản văn hóa dân tộc anh đã nhiệt thành hiến tặng nhiều hiện vật, tư liệu lịch sử quý hiếm cho các bảo tàng, cá nhân trong ngoài tỉnh, đồng thời tích cực tham gia ý kiến, cung cấp tư liệu cho các bảo tàng thực hiện các cuộc trưng bày di sản văn hóa Huế cũng như được mời báo cáo các chuyên đề về cổ vật, di tích lịch sử văn hóa Huế cho các lớp sinh viên. Ông còn tận tâm, nhiệt tình cung cấp tư liệu cho nhiều nghiên cứu sinh trong và ngoài nước để thực hiện các luận án tiến sĩ về đề tài di sản văn hóa Huế.
Với quá trình cống hiến, công tâm bằng trách nhiệm công dân, bằng tình yêu Huế lắng sâu trong sự nghiệp gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản Huế, nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh đã cùng nhóm tác giả được trao Giải Nhì (nhóm tác giả) Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thừa Thiên Huế lần thứ 9 (2019).
19 bài tham luận trong “Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian”, với văn phong mạch lạc, khúc chiết cùng những lượng thông tin chính xác, sự kiện quý giá được phát hiện, khám phá, nghiên cứu chắt lọc, tinh tế anh đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc Cố đô Huế.
Tài hoa, năng động, khiêm cung… với đức tính ấy, hy vọng và tin tưởng nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh sẽ còn tiếp tục phát hiện, khám phá những công trình, di sản khác từ Cố đô Huế văn vật, đẹp và thơ!
V.Q
(SHSDB40/03-2021)
Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.
(Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?
“Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời
Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.
Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.
Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.
(Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.
Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.
(Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.
Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người
Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.
Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.
NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.
Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm
Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím...với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng